(Trò chuyện với nhà thơ trẻ Nguyễn Quang Hưng)

Nhà thơ Nguyễn Quang Hưng sinh năm 1980, là hội viên Hội Nhà văn Hà Nội, hiện là phóng viên của ấn phẩm Thời nay (báo Nhân dân). Một gương mặt xuất hiện khá đều đặn trên sân thơ trẻ của Ngày thơ Việt Nam những năm gần đây. Nguyễn Quang Hưng vừa ra mắt bạn đọc tập thơ thứ 3 của anh mang tên “Lòng ta chùa chiền” thấy rõ nhiều nỗi hoài thương về quá khứ gắn liền với những day dứt về cuộc sống hôm nay. Ngôn ngữ thơ không phải là dễ đọc, nhưng chúng ẩn chứa và mang nhiều màu sắc thơ trẻ hiện nay…

Nhà thơ trẻ Nguyễn Quang Hưng (ảnh: Đỗ Hiếu)

– “Lòng ta chùa chiền” hình như đã nói hộ một tâm tư xuyên suốt của anh trong tập thơ này, cũng như các tập thơ trước đó: Một nỗi hoang hoải về quá khứ, sự tự dằn vặt mình trong cuộc sống hôm nay?

– Tôi không cảm thấy rằng mình u hoài về ngày xưa đến mức bỏ bẵng đi thực tại. Tôi quan tâm đến những giá trị bền vững được sản sinh, bồi đắp qua thời gian dài, cho đến hôm nay vẫn song hành và lung linh một cách sinh động, tươi tắn trong cuộc sống thường nhật. Chẳng phải sao khi hôm qua cũng thế, hôm nay và ngày mai cũng vậy, chúng ta vẫn hương khói trên ban thờ, trong các dịp lễ lạt, tết nhất…, vừa nhớ thương những bóng hình cũ, vừa khấn nguyện và hy vọng cho những ngày mai tốt đẹp hơn, thanh thản hơn? Cũng như thế, bao nhiêu ý tưởng đẹp đẽ, cao cả và nhân hậu mà ta nhận ra từ những lời dạy trong tôn giáo, tín ngưỡng, nếp sinh hoạt văn hoá, trong sự duy trì các phong tục, tập quán…, cho đến nay và mai sau, chúng sẽ vẫn còn hiện hữu trong đời sống.

Niềm trân trọng vẻ đẹp bền vững của quá khứ, với tôi, cũng có liên hệ với việc tìm thấy giá trị của chúng đương thời.  Và chính sự hài hoà quá khứ – thực tại để hướng tới ngày mai cũng là một cách để xoa dịu đi những mâu thuẫn, những xung đột diễn ra trong bản thân và trong đời sống hôm nay.

– Với câu thơ “Một người trai chải tóc ngồi dậy/Đạp xe lại phố bàng xưa” cùng nhiều hình ảnh khác nữa, hình như đều ẩn giấu một nỗi thương nhớ cái hào hoa thủa xưa Hà Nội…?

– Những câu thơ này tôi viết cho bố tôi, một người thợ thêu trong một gia đình làm nghề thêu đã ở các phố Hàng Nón, Hàng Trống, Hàng Mành… những năm trước và sau 1945. Có biết bao dồn nén riêng tư vào bài thơ, từ những điều bố tôi kể lại, về những ngôi nhà cũ với nền nếp sinh hoạt trong một gia đình thị dân Hà Nội, về những ngày khói lửa, về nỗi buồn thăm thẳm khi thành phố dần thay đổi. Có lần một người quen hẹn gặp bố tôi ở gần chùa Quan Hoa bên hồ Thiền Quang, bố tôi đi từ Hà Đông ra, vòng đi vòng lại mãi mới nhận ra được. Vậy mà thủa xưa, ngày còn niên thiếu, cũng bên hồ, bố tôi thường xuyên học nhạc trong lớp của một vị linh mục và các nhạc sĩ. Những chuyện buồn man mác ấy của một người Hà Nội bình thường như bao người khác vẫn ám ảnh tôi khi nghĩ về gia đình, dòng họ, về cuộc sống cá nhân trong những biến đổi của thời cuộc.

Vì sao trong “Lòng ta chùa chiền” và cả tập thơ trước đó, lại phải là thơ như  văn xuôi mà không phải là thơ truyền thống, hay một thể dạng nào quen thuộc, dễ đọc?

– Tập “Mùa Vu Lan” tôi in năm 2011 cũng vần điệu nối nhau đấy chứ! Lại có các bài lục bát nữa. Như là: “…Chiếu chùa nằm đợi yếm đào/Sao người để gió ra vào chiếu tôi…”

Có thể chị đang nhắc đến tập “Vườn ánh sáng” in năm 2008, nhưng lại tập hợp những bài viết sau “giai đoạn Mùa Vu Lan” vốn thuộc về thời sinh viên và “hậu” sinh viên. Từ “Mùa Vu Lan”, qua “Vườn ánh sáng”, đến “Lòng ta chùa chiền” là sự biến đổi của những cảm nhận và thao tác trong tôi, chúng rất tự nhiên, theo ý thích. Và ngày càng theo chiều hướng muốn khai phá nhiều hơn ở sức tưởng tượng chứ không muốn lệ thuộc vào thể loại nữa. Ở đây, với tôi, viết tự do, kéo dài, dàn trải sẽ thể hiện được nhiều hơn, dồn nén hơn những ý nghĩ, hình dung của mình; mặt khác chúng mang lại những hứng thú thử nghiệm, muốn viết cho khác đi.

– Nhưng những thử nghiệm ấy có thể lạc lối, nhất là khi nó không còn giữ được sự giản dị rất cần thiết của thơ? Anh có lo ngại về điều đó?

– Cái giản dị là cái chúng ta vươn tới, nhưng cách thể hiện tôi nghĩ không thể là đơn giản. Đôi khi vẫn phải có sự dồn nén, phức tạp để thể hiện những điều giản dị nhất của cuộc sống với tính hàm súc của ngôn từ. Tôi thích trong sáng tạo, mình sẽ dần mới hơn, khác hơn về những điều muốn nói và cách nói. Việc đó sẽ thôi thúc, lôi kéo mình trong suy ngẫm, liên tưởng, và tác động vào việc khai thác, thể hiện ngôn ngữ của mình. Tôi cho rằng những gì mình hình dung, suy tưởng, cần phải thể hiện ra một cách cẩn trọng, như những sản phẩm của sự chọn lựa nghiêm túc…Chẳng hạn khi viết bài “Từ thôn Nghĩa Lộ” – thơ tự do, tôi cứ nghĩ mãi về hoàng hôn trên cánh đồng, rồi từ từ viết ít một: “Cỏ rộng mãi/ Cặp chuồn chuồn ớt cõng nhau bay từ nghìn năm trước/ Đang hiện ra rực rỡ mây chiều…”.

Một điều cuối cùng, tôi cũng kỳ vọng người đọc sẽ chia sẻ, và bằng những phương pháp thẩm định nhất định hãy cùng với nhà thơ thấu hiểu hơn về tác phẩm.

Như thế nghĩa là có một sự thiếu vắng phê bình với thơ? Anh có nghĩ thơ trong cuộc sống hôm nay vốn đã bị “lép vế”, nhưng thơ của những người trẻ đang tìm tòi đổi mới với giọng điệu khác lạ lại càng khiến công chúng băn khoăn hơn?

– Xin cùng chị gửi câu hỏi về sự thiếu vắng này đến nhà phê bình, cũng như nỗi lo lắng về việc đã “lép vế” mà thơ trẻ hôm nay lại càng gây ra xa lạ khiến công chúng  băn khoăn hơn. Tôi thấy cần những diễn đàn để cho các chuyên gia, như những người đọc chuyên môn, và công chúng rộng rãi – cũng chính là những người phê bình từ góc độ của họ, có thể đối thoại một cách cởi mở với các cây bút.

Xin chân thành cảm ơn anh!

Nguồn: vanvn.net

Exit mobile version