Cảm thức “buồn trông” của Nguyễn Du là đạp bước và nhắm hướng cái đẹp mà đi, đầy mơ tưởng dù chỉ dựa vào ít ỏi điều trông thấy.
Bi cảm có mặt trong mọi nền văn học. Từ đó mà có mỹ học về cái bi. Nhưng cái bi cũng đa dạng như chính đời sống. Vì thế mà có vô số niềm bi cảm. Bi cảm cũng là cách ta nhìn cuộc đời: “Trăm năm trong cõi người ta”, “Trần thế bách niên khai nhãn mộng” (Nguyễn Du).
Bi cảm mang những tên gọi khác nhau trong từng nền văn học, thậm chí trong từng tác phẩm văn chương.
Với Hy Lạp đó có thể là pathos.
Với nhà thơ La Mã Virgil, phải chăng cái bi cảm đó là “lệ trong muôn vật”.
Nhìn từ Ấn Độ, đó là cảm thức karuna.
Ở Nhật, đặc biệt trong kiệt tác Truyện kể Genji, đó là aware.
“Cung đàn bạc mệnh” – tranh lụa họa truyện kiều của họa sĩ Ngọc Mai. |
Trong văn học Thổ Nhĩ Kỳ, qua diễn giải của Orhan Pamuk, ta có bi cảm huzun mà tôi thích phiên âm là u dung (dung mạo của u buồn).
Với Schopenhauer, trong nghệ thuật ông nhấn mạnh đến “tinh túy của bi thương, ý niệm của bi thương” (the essence of distress, the very Idea of distress).
Và Nguyễn Du? Nhà thơ “có con mắt trông thấu cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời”, nói theo Mộng Liên Đường chủ nhân (1820).
Mộng Liên Đường chủ nhân ngay từ năm 1820 ấy đã nắm bắt thần tình cái tinh túy của bi cảm Nguyễn Du là “trông thấu” và “nghĩ suốt”.
Vận dụng cái bi cảm “buồn trông” của ca dao, Nguyễn Du đã tạo nên cái bi trong một cái nhìn sâu thẳm, xứng đáng được xưng tụng là trông thấu sáu cõi nghìn đời.
Ngay nơi đoạn mở đầu, ta đã gặp cái “buồn trông” đó:
“Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”.
Nguyễn Du không chỉ nhìn thấy cái đau đớn (cái bi, cái đoạn trường) trong cõi người ta, trong đời Kiều, trong thập loại chúng sinh mà, ông còn làm cho ta thấy, làm ra cái thấy. Nhà thơ tuyệt diệu nhất là “Người làm cho thấy” (the Maker-see) nói theo Robert Browning.
Buồn trông nguyên là một cái nhìn của ca dao:
“Buồn trông con nhện giăng tơ,
Nhện ơi nhện hỡi nhện chờ mối ai!
Buồn trông chênh chếch sao mai
Sao ơi sao hỡi nhớ ai sao mờ”
“Buồn trông ngọn gió vờn mây,
Tương tư ai giải cho khuây nỗi buồn”
“Buồn trông trăng đã khuyết rồi,
Chia tay nhớ mãi những lời giao ngôn”
“Buồn trông con nhện giăng tơ,
Con mắt vẫn tỉnh mà ngờ chiêm bao”
Khi Kiều ở lầu Ngưng Bích, Nguyễn Du nhìn nàng bằng con mắt nàng đang nhìn thiên nhiên. Một cái nhìn buồn ôm lấy cả nhân vật và sự vật:
“Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa.
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ dàu dàu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”. (câu 1047-1054)
Ta thấy dường như Kiều lần lượt đồng hóa mình với cánh buồm (thấp thoáng mong manh trên biển) với hoa trôi (lênh đênh vô định), với nội cỏ (không còn là cỏ non xanh tận chân trời thuở chơi xuân cùng các em) và đặc biệt là gió cuốn (cuốn theo chiều gió) và tiếng sóng (vây bủa quanh chỗ ngồi trong tiếng gầm khủng khiếp).
“Buồn trông” ở ca dao chỉ cho thấy sự vật thấm đẫm nỗi chờ trông thương nhớ của con người chứ chưa mang lấy một ý thức về thân phận bị lưu đày như ở Kiều.
Nghĩa là Nguyễn Du đã đẩy cái cảm thức buồn trông ở ca dao đi xa hơn, tạo nên một bi cảm về thân phận chứ không chỉ là một bi cảm về tình tự.
Cái phương thức biểu hiện của Nguyễn Du được ông nói rõ trong câu 1038:
“Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”.
Ở đây, cần phải hiểu thấu đáo là tình và cảnh không bao giờ biệt lập. Mà là tương thôi. Cái này thôi thúc cái kia. Cùng như tương chiếu. Cái này chiếu ánh cái kia. Và cũng là tương duyên. Cái này là duyên cớ của cái kia.
Con người trong Truyện Kiều không bao giờ đứng ngoài cảnh, không bao giờ đứng ngoài thiên nhiên.
Bi cảm không chỉ là cách nhìn vào thiên nhiên, sự vật, thiên hạ mà còn là cách để cho thiên hạ nhìn vào mình, trông vào bi kịch của mình:
“Cũng liều một hạt mưa rào,
Mà cho thiên hạ trông vào cũng hay!” (câu 1961-1962)
Đó cũng là “buồn trông” chứ sao? Kiều nhìn Đạm Tiên như thế nào thì nàng cũng muốn người đời nhìn mình như thế.
“Nỗi niềm tưởng đến mà đau,
Thấy người nằm đó biết sau thế nào?” (câu 109-110)
Trong Kiều, “tưởng” trong nhiều trường hợp cũng có nghĩa là “buồn trông” như là câu trên. Tưởng đến mà đau thì cũng như trông thấy mà đau.
Tưởng cũng là “mơ tưởng”, là trông thấy trong mơ mà buồn. Do đó Nguyễn Du viết ra câu thơ kỳ lạ đầy lung linh này:
“Tuần trăng khuyết, đĩa dầu hao,
Mặt mơ tưởng mặt, lòng ngao ngán lòng”. (câu 251-252)
Đừng nghĩ đến một mặt hay hai mặt. Đây là cái lung linh của ngôn từ Nguyễn Du. Có vô số gương mặt kiều mị của Kiều hiện ra trong mơ tưởng của chàng Kim. Hoặc là nhìn đâu cũng thấy gương mặt nàng. Trong mây, trong nước, trong hoa. Và cũng có vô số nỗi buồn, nỗi lòng. Thời gian thì cứ hết đêm, rồi hết tháng, mà bóng Kiều đâu?
Nhưng những cái “buồn trông” vừa kể có vẻ thuộc về nỗi niềm riêng tư. Còn những buồn trông lớn hơn, ôm cả cõi người ta. Cái buồn trông luôn luôn mang tính quán chiếu, quán sát.
Khi chia tay với Kiều, Kim Trọng có cái nhìn bao quát hơn về phong cảnh và thời gian. Bây giờ “bước đường” đang “chia hai”. Bây giờ thời gian đang chuyển mùa, từ hạ sang thu. Bây giờ anh có một “mối sầu” đang sẻ nửa.
Và chính vì vậy mà cái buồn trông của anh vừa hướng ra ngoài vừa vọng vào trong. Trên người mình, anh gánh cả cảnh và tình:
“Buộc yên quẩy gánh vội vàng,
Mối sầu sẻ nửa, bước đường chia hai.
Buồn trông phong cảnh quê người,
Đầu cành quyên nhặt cuối trời nhạn thưa.
Não người cữ gió tuần mưa,
Một ngày nặng gánh tương tư một ngày”. (câu 563-568)
Mới vừa “Dùng dằng chưa nỡ rời tay”, Kim đã bước vào cuộc lưu đày, vào cõi xa lạ và vào tương tư xứ. Cuộc lưu đày của Kim diễn ra trước Kiều, hướng về một tang lễ, một tang tóc nhưng không có gì chết trong bản thân anh.
Trong khi, cuộc lưu đày mà Kiều sắp bị ném vào thì khác. Có cái gì đó trong bản thân nàng sẽ phải chết, mà cái nhìn buồn của nàng như tiên cảm được:
“Nàng thì đứng tựa hiên tây,
Chín hồi vấn vít như vầy mối tơ.
Trông chừng khói ngất song thưa,
Hoa trôi dạt thắm liễu xơ xác vàng”. (câu 569-572)
Cái “buồn trông” của Kiều luôn luôn là một khả năng dự cảm về một tương lai u thảm. Chơi mả Đạm Tiên, ngồi lầu Ngưng Bích và ngay cả khi tắm trước mặt Thúc Sinh. Ngay khi để lộ một tòa thiên nhiên nàng lại nói: “Lại càng dơ dáng dại hình, Đành thân phận thiếp, ngại danh giá chàng”.
Vừa khi “rời tay” Kim Trọng, Kiều đã cảm thấy bao nhiêu nỗi truân chuyên đang chờ mình. Cái bi cảm đó không trừu tượng mà rất cụ thể với khói ngất, hoa trôi, liễu xác.
Nó gợi đến đoạn ca dao:
“Đêm qua ra đứng bờ ao,
Trông cá cá lặn, trông sao sao mờ.
Buồn trông con nhện giăng tơ,
Nhện ơi nhện hỡi nhện chờ mối ai!”
Nhưng rõ ràng cái “buồn trông” của Kiều bi thiết hơn ca dao nhiều với làn khói của nghiệp duyên bay đến trước, dẫn đường cho những oan khổ lưu ly. Chính thế mà nhận định về thi hào Nguyễn Du, Từ điển Bách khoa Britannica viết:
“Truyện thơ của Nguyễn Du diễn đạt những đau đớn riêng tư và thể hiện lòng nhân đạo sâu sắc thông qua sự khai thác học thuyết của nhà Phật về nghiệp quả báo ứng cho những tội lỗi cá nhân”. (Dẫn theo văn bản Truyện Kiều của Hội Kiều học Việt Nam, Nxb Trẻ, 2015).
Thực ra, không có gì là đau đớn riêng tư. Mọi nỗi đau đều được Nguyễn Du thể hiện như là nỗi đau con người, nỗi đau trong cõi người ta. Cái bi trong đời Kiều được diễn đạt thành yếu tính của bi, ý niệm của bi. Do đó mà người ta trích Kiều, tập Kiều trong mọi trường hợp.
“Rõ ràng trong ngọc trắng ngà” – tranh lụa họa truyện kiều của họa sĩ Ngọc Mai. |
Mỗi câu thơ trong Kiều không gói mình trong ý nghĩa riêng tư. Truyện Kiều, như mọi kiệt tác khác, mang trong mình chân trời của ý nghĩa. Đó là thứ ý nghĩa mở ra mãi mãi, không dừng lại ở nơi chốn hay thời đại nào:
“Tưởng bây giờ là bao giờ,
Rõ ràng mở mắt còn ngờ chiêm bao”. (câu 3013-3014)
“Trời còn để có hôm nay,
Tan sương đầu ngõ, vén mây giữa trời.
Hoa tàn mà lại thêm tươi,
Trăng tàn mà lại hơn mười rằm xưa”. (câu 3121-3124)
Cái nhìn của Nguyễn Du thì buồn, nhưng không bao giờ tuyệt vọng. Cái buồn trông ấy hướng về chân trời của bình an.
Từ bi đến an, đó là cái nhìn phương Đông, rất gần với mỹ học Ấn Độ: Từ karuna rasa đến santa rasa.
Cái nhìn đó khác với bi kịch Hy Lạp. Theo Roland Barthes: “Bi kịch chỉ là cách kết tập bất hạnh của con người”.
Nhưng Kiều, hay con người, không chỉ có bất hạnh, bất an.
Cũng khác với Virgil, thiên nhiên trong Kiều dù đôi khi đẫm lệ vẫn có mùa xuân và những ngày vui.
Đặt bên bi cảm mono no aware của Truyện kể Genji ở Nhật, cái buồn trông của Nguyễn Du “động” hơn, phong trần hơn vì aware giống như cái nhìn của người lữ khách, còn buồn trông đi với một thân phận lưu đày.
Còn cái huzun mà nhà văn Orhan Pamuk nhắc tới thì lại khác. Là một thứ tâm trạng u tối, cái u dung của hàng triệu con người trong một thành phố lâu đời.
Cái buồn trông của Nguyễn Du thì ít bóng tối hơn:
“Nghề riêng nhớ ít tưởng nhiều,
Xăm xăm đè nẻo Lam Kiều lần sang”. (câu 265-266)
Cảm thức “buồn trông” của Nguyễn Du là đạp bước và nhắm hướng cái đẹp mà đi, đầy mơ tưởng dù chỉ dựa vào ít ỏi cái trông thấy.
Cái buồn ấy chính là “cái tâm” của thơ ca, tinh túy của thơ ca. Một thứ thơ ca buồn nhưng ái ân với đời sống.
Theo Nhật Chiêu – Báo điện tử vnexpress