I/ Đâu phải ngoại lệ ?

Hàng hoá Việt Nam thường được coi là nghèo nàn về mặt chủng loại . Những công cụ hoặc đồ dùng thiết yếu cho sinh hoạt hàng ngày cái gì cũng có , nhưng đơn sơ chưa đạt tới mức độ hoàn thiện .Trong hoàn cảnh giao lưu kinh tế với nước ngoài được mở rộng , người sản xuất của chúng ta khá nhạy cảm trong việc tiếp nhận . Nghĩa là thấy ai làm cái gì ta cũng chịu khó mô phỏng bắt chước . Song thường nhái theo kiểu cách học được mà ít có khả năng tạo ra những mẫu mã mới và không xây dựng nổi những thương hiệu có uy tín , nên thua ngay trên sân nhà , tức không cạnh tranh nổi với hàng hoá nhãn mác nước người . Không có tiền thì đành bóp bụng chịu , chứ nếu có , người tiêu dùng hôm nay vẫn sính dùng hàng ngoại hơn hàng nội .


Trên đây là những đặc điểm đang chi phối sự sản xuất vật chất ở ta .Chúng được nói nhiều , được phân tích kỹ trên mặt báo và mọi người đều biết , cả những người làm nghề sáng tạo ra các của cải tinh thần ( trong đó có các nhà văn nhà thơ ) cũng biết . Chỉ có điều không ai chịu có một chút liên hệ tối thiểu , nhìn các mặt hàng khác mà nhận chân giá trị thứ hàng mình làm . Ngược lại , nhiều người cầm bút vẫn nuôi ảo tưởng , hình như nghề của mình là một ngoại lệ , văn chương mình làm ra không thể xoàng xĩnh như mấy thước vải do các hãng trong nước dệt hoặc mấy viên thuốc nội khi con ốm bất đắc dĩ mới mua cho con dùng . Không , ta kém những gì không biết , chứ văn chương không chịu kém ai cả !


Sự thực thì như thế nào ? Thử nhìn vào một thể tài mà bạn đọc đang tha thiết mong đợi và nhiều người cũng đang háo hức lập nên kỳ tích là thể tiểu thuyết . Đây vốn không phải là một thể văn nội sinh , mà chỉ mới được du nhập từ khi người Pháp tới ( thể truyện nôm trong văn học trung đại mới chỉ là những mầm mống sơ khai ) .Và mặc dù tiểu thuyết VN thế kỷ XX được viết khá nhiều , song còn quá sớm nếu bảo rằng chúng ta có một truyền thống tiểu thuyết hùng hậu như nước này nước nọ . Chẳng có người trong cuộc nào công khai thú nhận , song về lý mà xét , có lý do để dự đoán rằng không ít cuốn tiểu thuyết được viết và in ra thời gian vừa qua tạm gọi là thành công trên phương diện thể loại chẳng qua nhờ biến báo những kinh nghiệm học được từ nước ngoài . Chưa thể nói tới những sự đột phá tìm tòi , những bước mở rộng quan niệm về thể tài mà người ta thường bắt gặp ở những nền tiểu thuyết lớn ( cũng tức là chưa có những mẫu mã mới như bên kinh tế thường nói ). Một nhà nghiên cứu văn hoá đã đưa ra ví dụ khái quát :Việt Nam không sáng chế ra chiếc xe đạp , nhưng đứng ở góc độ khai thác hiệu năng của chiếc xe đạp để phục vụ cho các nhu cầu sinh hoạt thì không ai bằng người VN . Tôi nghĩ rằng thành tựu của tiểu thuyết ở ta cũng ở mức độ tương tự , tức là ta khá hơn cả trong việc vận dụng tiểu thuyết để phục vụ đời sống , thế thôi .Viết thì cứ viết đọc thì cứ đọc , cần trao giải thưởng để động viên nhau thì cứ trao , nhưng bốc nhau lên quá thì không nên. Tỉnh táo trong việc đánh giá thành tựu đã qua chính là một cách để đỡ có những hy vọng hão huyền và cả những đòi hỏi lố bịch . Tư duy về văn học ở ta còn loanh quanh ở mức như thế này , văn hoá nghề nghiệp ở những người viết còn dừng lại như thế kia , thì hy vọng làm gì cho mệt . Gần đây một vài người thích nêu ra những câu hỏi vui vui kiểu như bao giờ VN có những người đoạt giải Nobel văn chương. Tôi nghĩ câu trả lời không có gì khó khăn lắm : đại khái bao giờ người Việt có những phát minh khoa học lớn được cả thế giới áp dụng ; hoặc có những nhà hoá học tìm ra những nguyên tố mới ; hoặc gần gũi hơn , bao giờ bóng đá Việt Nam Việt Nam ở vào tốp 5 tốp 10 trong bảng xếp hạng bóng đá thế giới — thì lúc ấy thơ văn tiểu thuyết chúng ta trước sau sẽ có Nobel . Văn chương không thể là một ngoại lệ , sự sáng tạo trong văn chương cũng nằm trong tiềm năng sáng tạo chung ,và cùng trình độ như mọi ngành nghề khác .

II/ Chung quanh câu chuyện xuất ngoại của văn chương Việt Nam

Thời buổi này ai mà chẳng muốn có dịp đi ra nước ngoài để tìm hiểu thêm về thế giới , nữa là những người viết văn . Và nếu đó không phải là những chuyến du lịch hoặc đi theo sự phân công phân nhiệm của cấp trên , mà là cái sự đi ra đầy vinh quang, tức đi bằng tác phẩm của mình , thì với mỗi người cầm bút , lại là điều đáng tự hào . Có thể đọc ra niềm mong mỏi nói trên của các nhà văn ta qua những lời họ bàn bạc với nhau chung quanh chuyện đưa văn chương ra với bè bạn xứ người . Tin tức truyền đi rôm rả lắm .Trong đám những người nặng lòng với văn chương , thỉnh thoảng vẫn nghe có lời đồn thổi đại ý rằng ở Pháp ở Mỹ rồi ở Thuỵ Điển và Đan Mạch ,ở Nhật Bản cũng như bên Hàn quốc , thơ của mình , truyện của mình , người ta cũng dịch vô khối .


Sở dĩ bảo là chuyện đồn thổi , bởi nó chỉ có một li một leo sự thực : văn chương ta dịch thì cũng có được dịch ; nhưng không phải là vô khối đâu , mà chỉ đơn sơ , lót đót, lẻ tẻ , vụn vặt , nói chung là ít lắm , ít đến mức nếu đứng ở toàn cục mà xét phải thấy xấu hổ .


Mới đây , sau khi đi nhận giải văn học Asean hàng năm , nhà thơ Bằng Việt than thở đại ý ngay trong khu vực cũng chẳng ai biết gì về ta cả . Hoặc trên báo Văn nghệ , một thành viên của đoàn nhà văn đi thăm Trung quốc kể rằng khi hỏi xem các bạn có biết gì về văn học Việt nam , thì thấy họ ngớ ra một lúc sau mãi mới nhớ đến một cái tên , đó là cuốn Từ tuyến đầu Tổ quốc . Đối với khu vực Âu Mỹ , tình hình có khá hơn một chút , song nếu đặt nó trong sự bùng nổ dịch thuật ở đó thì phải nói văn học ta chưa có chỗ đứng , chưa thành mặt hàng , chưa ra tấm ra món nào hết .
Vậy thì nên nhìn nhận hiện tượng này như thế nào ? Những cách bắt bệnh bốc thuốc tức là cách giải thích đang được lan truyền hiện nay đã thực hợp lý chưa ?
Xin được bắt đầu bằng một chuyện bên kinh tế .


Đọc báo cũng như xem ti-vi, nhiều người hẳn nhớ gần đây , các ngành xuất khẩu của ta thường gặp khó khăn , hàng không tiêu thụ được , có khi đã theo tàu vào cảng mà còn bị trả về .
Khi kể lại việc này , những người viết bài trên báo thường không quên tỏ ý oán trách là thiên hạ người ta khắt khe , nếu không nói là thiếu thiện ý , họ chỉ thích đặt ra cho lắm các loại rào cản , cốt để hạn chế việc làm hàng xuất khẩu của Việt Nam.


Trong khi đó chỉ cần nghe kỹ đầu đuôi câu chuyện thì người không am hiểu gì về kinh tế cũng có thể đoán ra : sở dĩ thiên hạ họ không mua hàng ta , nguyên nhân chỉ là vì các mặt hàng ấy không bảo đảm yêu cầu mà họ đặt ra từ trước . Nếu lại biết thêm rằng những yêu cầu này người ta áp dụng không chỉ với Việt Nam mà với mọi loại hàng nhập khẩu nói chung thì có thể đoán những lời than phiền trên là vô căn cứ . Ta ít hiểu về việc người , nên nghĩ sai cho người . Giống như những đứa trẻ quen được chiều mà sinh làm nũng , ta muốn người ta thương cho phận nghèo hoặc kinh tế lạc hậu mà đặc cách chiếu cố , rồi không được thì đập chân đập tay hoặc thở dài oán trách .
Trở lại với tình hình văn học . Khi cắt nghĩa hiện tượng văn học Việt nam ra nước ngoài còn khó khăn , nhiều người thường có xu hướng đổ thừa cho những nguyên nhân khách quan .Tại người làm đối ngoại của ta ít hiểu về văn học .Tại tiếng Việt khó quá . Tại chúng ta không khéo quan hệ với người , không giỏi tuyên truyền để cho người ta biết thêm về mình .


Những cách cắt nghĩa loại này theo tôi , không phải là sai, song chỉ dừng lại ở những nguyên nhân bên ngoài , trong khi đó việc trước tiên cần làm là rà soát lại chất lượng sáng tác của ta , tìm thấy ở đó những nguyên nhân sâu xa của tình hình trì trệ .


Thời còn chiến tranh hoặc sau đó ít năm , người ta có thể dịch ta ít nhiều vì lý do hữu nghị , dịch xong rồi để đấy không có ai đọc cũng vẫn cứ dịch tiếp . Nay thì hoàn cảnh đã khác . Nếu những của cải về tinh thần ta đưa sang không đáp ứng nhu cầu của bạn đọc , nói toàn những chuyện người ta không quan tâm , nhân vật xa lạ với họ , cách nghĩ của người trong sách ngớ ngẩn ẩm ương kỳ cục họ không hiểu nổi … thì những dịch giả nước ngoài dù có yêu mến ta đến mấy cũng “ chắp tay vái “ . Vì họ biết có dịch ra , sách cũng không ai đọc và trước tiên là không ai mua . Về phần mình , nếu tỉnh táo , chúng ta cũng sẽ chẳng thích thú gì với cái việc đãi bôi đó cả .


Có thể có người trách tôi nhìn mọi việc quá thực dụng , nhưng trong thế giới hiện đại, không thực dụng sao được ?! Cái lối thần bí hoá văn chương , thích thì thào khấn khứa , nào là ở đây rất nhiều bí mật , nào là có những cái hay không ai cắt nghĩa nổi , và có cái hay của dân tộc này dân tộc khác không hiểu nổi …. , những cách nghĩ ấy đã quá lỗi thời , không thích hợp với công cuộc giao lưu văn hoá đang được tiến hành sôi nổi giữa các nước , các dân tộc .


Tiên trách kỷ , hậu trách nhân , nhân những khó khăn trong xuất ngoại nay là lúc ta nên nhìn lại chính ta .


Xét trong tâm lý : Có phải lâu nay ta chỉ tính tiếp nhận của người mà còn ít nghĩ tới chuyện đóng góp với người ? Có phải lâu nay chúng ta thường chỉ mong chờ ở họ một ít ban phát , một ít thương hại , mà chưa tính chuyện đóng góp với bạn bè , rộng hơn là chinh phục họ , buộc họ phải tiếp nhận ?


Về chất lượng công việc : Có phải thứ văn chương chúng ta làm ra thường chỉ dừng lại ở trình độ một thứ hàng nội địa dùng tạm với nhau mà chưa bao giờ đạt chuẩn mực quốc tế ? Và do chỗ bằng lòng với tình trạng tiêu thụ nội địa như vậy, ta thường dễ dãi và không có yêu cầu cao về nhau , chỉ ra sức chiều chuộng tâng bốc nhau , mà bỏ qua cả những chuẩn mực cần thiết , đến mức thỉnh thoảng có người nước ngoài biết tiếng Việt nhìn vào , họ cũng ngán luôn ?


Tôi chợt nhớ lại một câu chuyện : khoảng 1986-1989 , tôi có dịp làm việc tại một nhà xuất bản của Liên xô cũ , ở đó có một người bạn Nga rất giỏi tiếng Việt , anh thường bảo tôi rằng tiếng Việt với anh là một thứ cần câu cơm . Biết vậy có một tờ báo mình in ngay ở bên Moskva ngỏ ý nhờ anh đảm nhận phần dịch để đưa tới bạn đọc Nga, nhưng nói thế nào anh cũng từ chối . Khi nghe tôi gặng hỏi sao không nhận , có phải vì tiền ít không thì anh bảo không phải , cái chính là các tác giả viết tiếng Việt kém quá , kém đến mức không thể thương được . Cứ dịch y như nguyên văn thì anh mang tiếng . Mà viết lại bằng tiếng Nga thì quá tốn công anh không muốn .


Cái căn bệnh” không thể thương được “ nói ở đây , nếu tôi không nhầm ,đến nay càng bùng phát , lan ra không chỉ trên mặt báo mà trong cả các tập truyện ngắn truyện dài , và chỉ nội một lý do đó thôi cũng đã làm cho cái ngày văn chương ta đến với bạn bè xứ người còn xa lăng lắc ./.

Vương Trí Nhàn