BẢN HÙNG CA ĐẤT VIỆT
Võ lược – Văn thao gây nghiệp lớn
Việt Nam văn hiến bốn ngàn năm
Nhất định định bay cao chim Hồng – Lạc.
Nam thiên linh địa ấy Thăng Long…
Con đứng trước tượng đài Hồ Chủ Tịch
Lòng bâng khuâng … non nước bốn ngàn năm
Từ thủa Âu Cơ cùng Lạc Long Quân chia tay trong nước mắt
Mỗi người một phương gây nòi giống Lạc – Hồng.
“Các vua Hùng đã có công dựng nước…”
Họ Hồng Bàng, tên gọi nước Văn Lang
Mười tám đời liên tiếp nối ngôi
Nước thịnh – suy hai ngàn năm có lẻ.
Nhớ Phù Đổng Thiên Vương Thánh Gióng
Tuổi lên ba nhưng chưa biết nói cười
Khi nghe chiếu vời người ra cứu nước
Đã đứng lên xin được giết giặc Ân.
Cưỡi ngựa sắt, tay cầm thanh roi sắt
Đuổi giặc thù đến tận đất Sóc Sơn
Roi sắt gãy, có tre ngà thay thế
Giết giặc xong, Thiên tướng lại về trời.
Xưa Thục Phán An Dương Vương lập quốc
Thần Kim Qui giúp sức dựng Loa Thành
Nỏ Cao Lỗ đánh tan bao kẻ địch
Giặc hùng kia phải tìm cách lui binh.
Vờ hoà hoãn kết thông gia hai nước
Triệu Đà cho con làm kế “Mỹ nam nhân”
Trọng Thuỷ trộm nỏ thần, nàng Mỵ Châu ôm hận…
An Dương Vương về với chốn biển xanh.
Đất nước ta trải ngàn năm Bắc thuộc
Dân nước ta chịu khốn đốn khôn cùng
Người Giao Chỉ gồng mình trong tủi nhục
Chờ một ngày quật khởi cứu non sông.
Giận thái thú Mê Linh, Hai Bà Trưng nổi dậy
Đất Lĩnh Nam chiếm đóng sáu lăm thành
Đuổi Tô Định chạy trốn tận Biện Kinh
Mặt xanh mét quỳ Bắc Vương xử tội.
Trưng Nữ Vương đã lên ngôi lập nước
Tự hào thay nữ kiệt Vua Bà…
Ba năm sau, Mã Viện kéo quân qua
Trời! Thế nước còn đơn sơ, non trẻ…
Lập thế trận chặn quân thù từng bước
Ngăn không cho chúng đánh chiếm nước nhà
Nhưng giặc mạnh, giăng địa võng, thiên la
Sông Hát Giang, Hai Bà đành tuẫn tiết.
Triệu Thị Trinh nữ anh hùng kiệt hiệt
Trên mình voi đuổi sạch bóng quân thù
Lũ cướp nước “ Hoành sơn đương hổ dị”
Lâm trận tiền “Đối diện Vương bà nan”.
Đất Châu Hoan, Mai Thúc Loan dấy nghĩa
Hợp dân phu, dũng sĩ đuổi giặc Đường
Thành Vạn An đất phát tích Đế Vương
Lưu muôn thủa, vị Vua Đen cái thế.
Nước Vạn Xuân vẫn luôn luôn tươi trẻ
Trong lòng dân mãi mãi những mùa xuân.
Nạn cống nạp, phu phen từ đây dứt
Sử nước Nam nay đã bước sang trang.
Đây! anh hùng xuất hiện lúc nguy nan
Đất Đường Lâm, Phùng Hưng trừ hổ dữ…
Ba anh em cùng anh tài tụ nghĩa
Thành Tống Bình thất thủ trước nghĩa quân
Cao Chính Bình cai trị đất An Nam
Quá sợ hãi đã hao thân tự ải
Dân nước ta thoát khỏi vòng đô hộ
Gần mười năm sử sách mãi còn vang.
Nhớ Ngô Quyền chiến thắng Bạch Đằng Giang
Cọc bịt sắt nhấn chìm quân Nam Hán
Lưu Hoằng Tháo con Hán Vương tử nạn
Mộng Giao Châu đã tắt hẳn từ đây!?
Người anh hùng thủa cắt cỏ, chăn trâu
Dựng cờ lau, tập bày binh đánh trận.
Đinh Bộ Lĩnh- Vạn Thắng Vương chí lớn.
Dẹp sứ quân, ổn định đất quật cường.
Tướng Lê Hoàn tài dụng binh lỗi lạc
Được triều thần tôn làm bậc Quân Vương
Thời Tiền Lê bao chiến công hiển hách
Từ bình Chiêm – đánh Tống – định canh nông…
Thế nước nhà bước vào vòng xoay chuyển
Bọn gian thần làm hại nước Nam ta
Gặp thời cơ giặc Bắc định đánh qua.
Nhưng nước Việt đã chuyển sang triều mới
Vương triều Lý huy động quân biên ải
Đốt sạch lương, đuổi chúng tới Ung Châu.
Khiến vua Tống phải hồn xiêu phách lạc
Khi nghe tin quân nước Việt oai hùng.
Sông Như Nguyệt sục sôi muôn sóng dữ
Tống tràn sang trả hận Đại Việt ta
Một đêm khuya “Bài thơ thần” vang động
Binh tướng Lý triều đánh chúng nát tan thây.
Bản tuyên ngôn, “Nam quốc…”, đâu trời định?
Thành Thăng Long thế tựa dáng rồng bay.
Lý Công Uẩn vị vua đầy sáng suốt
“Chiếu dời đô” mới đó đã ngàn năm.
Đến thời Trần, bọn Nguyên – Mông hung hãn
Chiếm khắp vùng Âu – Á tiến sang ta
Những vó ngựa kiêu hùng không địch thủ
Thành Thăng Long ngập khói lửa chiến tranh.
Bến Bình Than vua tôi bàn sách lược
Trần Khánh Dư xin chuộc tội, lập công
“Hội nghị Diên Hồng”, các bô lão đồng thanh
“Đánh! Đánh! Đánh!” không đầu hàng kẻ địch.
“Hịch tướng sĩ” xốc toàn quân đứng dậy
Hào khí Đông A “Sát thát” vọng non sông
Bến Chương Dương mồ chôn quân giặc dữ
Hàm Tử Quan giết bao kẻ xâm lăng.
Nhớ anh hùng tuổi trẻ bóp nát cam
Trần Quốc Toản, “lá cờ thêu sáu chữ”.
Trần Bình Trọng: “nước Nam thà làm quỉ
Hơn làm Vương cho đất Bắc” gian hùng.
Trần Quốc Tuấn với “Binh thư yếu lược”
Vạn Kiếp đây lưu chiến thắng lẫy lừng.
Quân dân ơi: “ Thái bình nghi nỗ lực”
Động can qua: “ Vạn cổ thử giang san”.
Hào hùng thay, vương triều Lê tiếp nối
“Hội Lũng Nhai” kết nghĩa những anh hùng
“Quân điếu phạt” trời ban cho kiếm báu
Đuổi giặc thù khi thế giặc đang hăng.
“…Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần
Khi Khôi huyện quân không một lữ…”
Tướng Lê Lai ra trận tiền thế chúa
Quên thân mình cứu đại cuộc giang sơn.
Nguyễn Trãi tố bọn giặc Minh tàn bạo:
“…Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ…”.
Thật đắng cay trong cảnh nước lầm than!
Nhưng đất thiêng xuất anh hùng, hào kiệt
Trận Bồ Đằng sấm động giữa trời quang
Ải Chi Lăng khiến kẻ thù khiếp đảm
Miền Trà Lân thế trúc chẻ tro bay.
“…Lấy chí nhân tha cho về cố quốc
Đến nơi rồi tim vẫn đập, chân run…”
Liễu Thăng cụt đầu…, Mộc Thạch bỏ mạng…
Minh Vương ơi! nhớ nhé “Hội Đông Quan”!
Vui thanh bình Lê Thái Tổ khao quân
Trên mặt hồ, gửi “rùa thần” kiếm báu
Hồ Hoàn Kiếm từ đây thành tên gọi
Giữa ngàn năm văn vật đất Thăng Long.
Nhớ Nguyễn Huệ, người anh hùng áo vải
Đã vùng lên khi Nam – Bắc phân tranh
Mong cứu dân thoát cuộc đời khổ ải
Đưa nước nhà qua hiểm hoạ xâm lăng
Quân Xiêm ơi! liệu có nhớ hay chăng?
Lửa cháy đỏ trận Rạch Gầm, Xoài Mút.
Nguyễn Ánh ơi! dù thế cùng lực kiệt
Cùng dân Nam sao “cõng rắn cắn gà nhà”?!
“Đống Đa xưa bãi chiến trường
Ngổn ngang xác giặc vùi xương thành gò…”
Giặc Thanh ơi, mạng người đâu lá cỏ
Ta giết quân sang cướp nước tham tàn.
Thuận lòng dân, Người lên ngôi Hoàng Đế
Hiệu Quang Trung chấn động nước Đại Thanh.
Vì đại cuộc kết bang giao khéo léo
Những mong sao dân được hưởng thái bình.
Tiếc thương thay, vị minh quân bách thắng
Đã ra đi khi mộng nước chưa thành
“Ai tư vãn”, Trung Đô ơi! uất hận!
Xa lắm rồi, còn đâu bóng hùng quân…
Nước hỗn loạn nạn ngoại quân xâm lấn
Nhân dân ta một cổ chứa bao tròng
Nào Pháp, nào Tàu, nào Nhật cứ đua tranh
Vắt sức dân, khai thác dần của cải.
Những khởi nghĩa mang tầm thời đại
Nào Duy Tân, Yên Thế, Thái Nguyên…
Nào Yên Bái, Lạng Sơn, Xô Viết…
Nào Batơ, Đình Bảng,… anh hùng.
Nguyễn Ái Quốc với tinh thần ái quốc
“Người đi tìm hình của nước” bấy lâu
Từ Bến Nhà Rồng cho đến Năm Châu
Nay trở lại định con đường giải phóng.
Đến Tân Trào thoả lòng dân trông ngóng
Hồ Chí Minh mang ánh sáng bình minh
Trong tăm tối nhờ có Người khai sáng
Hướng đi theo: Đảng Cộng Sản quang vinh.
“Từ ấy” dân ta – những người dân mất nước
Đã hiểu rằng, muốn có được tự do
Phải chiến đấu, phải hi sinh, vượt khó…
Phải cùng nhau chung sức, chung lòng.
Năm bốn lăm, nước Việt Nam độc lập
Giữa muôn vàn thử thách, khó khăn
Vượt nạn đói, chống kẻ thù, học chữ…
Nhân dân ta vì đất nước quên mình.
Phát xít Nhật đã hoàn toàn thất bại
Anh – Pháp điên cuồng phá hoại đất nước ta
Chiếm Miền Nam dựng chế độ cộng hoà
Đặt Diệm, Nhu… dưới chính quyền bảo hộ.
Đang còn nữa, bọn giặc Tàu tàn bạo
Vờ giúp ta nhưng đánh cướp nước ta
Tổ quốc lâm nguy, lời hiệu triệu Bác đưa ra:
“Toàn quốc kháng chiến – toàn dân kháng chiến”.
Nhớ “Tây tiến” đoàn quân không mọc tóc.
Nhớ “Đêm nay Bác không ngủ” giữa rừng.
Những dân công gùi lương, xẻ núi, ngăn sông…
Cùng chiến sỹ “Hò kéo pháo” lên đường ra mặt trận.
Điện Biên Phủ những trận đòn sấm sét
Năm mươi sáu ngày đêm, tướng Đơcat(xtơri) xin hàng.
Đoàn bại binh còn mang đầy súng đạn
Nhục nhã thay quân cướp nước sài lang.
Nước Việt Nam ghi hình trên thế giới
Tấm gương soi chống áp bức thực dân
“Mẫu quốc Pháp” từ đây đà thất bại
Vang chiến công Võ Nguyên Giáp anh hùng.
Đế quốc Mỹ đã thay chân giặc Pháp
Vào Miền Nam mở rộng cuộc chiến tranh
Chúng thực hiện bao hành vi tàn bạo
Rồi đưa quân vào cuộc chiến vô luân.
Ơi! Tiền phương đang gian khổ đấu tranh
Miền Bắc đây! Hậu phương nghe tiếng gọi…
Đang lao động miệt mài trong thương nhớ
Góp sức người, sức của đến Miền Nam…
Đây! Những đoàn quân mũ tai bèo, chân dép lốp
Tuổi thanh xuân phơi phới chí hào hùng
“Xẻ dọc Trường Sơn” theo cờ Đảng anh minh
Quyết nối lại nước nhà đang chia cắt
Mặc mưa đạn, bom rơi, pháo kích…
Vẫn hiên ngang những con cháu Lạc – Hồng
Máu ta đổ để giữ vững non sông
Mỗi người dân là một người chiến sĩ.
Ta tiến tới Tổng tiến công Sáu tám
Mỹ – Nguỵ kinh, chấn động cả Bạch Lầu
Giới cầm quyền đổ lẫn tội cho nhau
Quân Giải phóng tiến trên đà thắng lợi
Đến chiến thắng trên bầu trời Hà Nội
“Pháo đài bay”, “thần sấm”, “con ma”…
Những phi công lão luyện, cáo già
Thành bại tướng lưới phòng không non trẻ.
Giặc Mỹ kia không còn là “Ông kẹ”
Đã xuống thang kí “Hiệp định Pari”.
Tên Đế quốc đứng hàng đầu thế giới
Phải rút quân với thất bại ê chề.
Rồi chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử
Năm cánh quân về giải phóng Sài Gòn
Bọn Nguỵ quyền sụp đổ – lẽ đương nhiên
Dương Văn Minh đầu hàng không điều kiện.
Ba mươi – Tháng tư ta hoàn toàn giải phóng
Năm bảy lăm, Nam – Bắc được sum vầy
Mọi người dân đã có quyền bình đẳng
Thỏa ước mong lòng Bác bấy lâu nay.
Việt Nam ta bước vào thời đổi mới
Cùng toàn dân trên thế giới hoà bình
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc – Văn minh
Như lời Bác: cùng Năm Châu sánh bước…
Nguyễn Công Minh
Chủ nhiệm các CLB võ cổ truyền Nhất Nam Thành phố Vinh – Nghệ An.
Email: [email protected] Tel: 0942.797.565
Chú thích:
1- Những câu chữ thường, in nghiêng được đóng trong dấu nháy kép: Là những câu nói, câu thơ … trích nguyên văn trong những tài liệu khác.
Ví dụ1: “ Các Vua Hùng đã có công dựng nước…” (dòng 1 khổ 2): Là câu nói của Bác Hồ vào ngày 18/9/1954, trước Đền Hạ thuộc Đền Hùng, Phú Thọ với cán bộ, chiến sĩ Đại đoàn quân Tiên Phong chuẩn bị về tiếp quản Thủ đô. Bác căn dặn: “Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”!
Ví dụ 2: “ Hoành sơn đương hổ dị
Đối diện Vương bà nan” (dòng 3,4 khổ 11): Là những câu nói về Bà Triệu của người xưa khi nói về nỗi sợ hãi của kẻ địch khi đối diện với Bà trên chiến trường. Dịch nghĩa như sau:
Qua núi gặp hổ dễ
Đối diện Vương Bà nguy.
2 – Những câu chữ đậm, in nghiêng đóng trong dấu nháy kép: Đây là tên những Tác phẩm, những bài hát… có đầy đủ nội dung.
Ví dụ 1: Một đêm khuya “Bài thơ thần” vang động. (dòng 3 khổ 21).
Trong đó “Bài thơ thần” là tên gọi bài thơ mà Thái uý Lý Thường Kiệt đã cho người đọc trong đêm khuya trên phòng tuyến sông Như Nguyệt để động viên tinh thần binh sĩ và để đe doạ quân tướng nhà Tống đang tập trung chuẩn bị đánh chiếm nước ta. Nguyên văn bài thơ như sau:
NGUYÊN VĂN |
DỊCH NGHĨA |
Nam quốc sơn hà Nam đế cư Tuyệt nhiên định phận tại thiên thư Như Hà nghịch lỗ lai xâm phạm Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư. |
Sông núi nước Nam vua Nam ở Rành rành đã định ở sách trời Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời.
|
Ví dụ 2 : “Chiếu dời đô” mới đó đã ngàn năm. (dòng 3 khổ 21).
Trong đó “Chiếu dời đô” hay còn gọi là “Thiên đô chiếu” là văn bản do vua Lý Thái Tổ tự tay viết và ban hành vào mùa xuân năm 1010, để chuyển kinh đô của nước Đại Cồ Việt từ Hoa Lư (thuộc tỉnh Ninh Bình ngày nay) ra thành Đại La (Hà Nội ngày nay).
Ví dụ 3: “Hội nghị Diên Hồng”, các bô lão đồng thanh
“ Đánh! Đánh! Đánh!” không đầu hàng kẻ địch. (dòng 3,4 khổ 24).
Trong đó, “Hội nghị Diên Hồng” là hội nghị năm 1284 do Thượng hoàng Trần Thánh Tông triệu họp các phụ lão trong cả nước để trưng cầu dân ý, hỏi về chủ trương nên hòa hay nên đánh khi quân Nguyên Mông sang xâm lược Việt Nam lần thứ 2.
Hội nghị này được tổ chức trước thềm điện Diên Hồng vào tháng chạp năm Giáp Thân 1284. Khác với hội nghị Bình Than trước đó, hội nghị Diên Hồng không bàn đến chiến lược, chiến thuật quân sự mà chỉ bàn: nên đánh hay nên hoà.
Hội nghị Diên Hồng được xem như hội nghị dân chủ đầu tiên trong lịch sử Việt Nam. Các phụ lão có thể coi là những đại biểu của dân. Sau hội nghị, chính các phụ lão là những người truyền đạt lại chủ trương của chính quyền đến người dân.
Nguyễn Công Minh