Di Li
(Minh họa của Choai)
Hễ mỗi lần đi xa, hay đúng hơn là chỉ cần rời khỏi Hà Nội, bản năng ăn uống của tôi bỗng trở nên hèn.
Tôi bắt đầu thèm muốn những thứ mà lúc còn ở nhà vẫn nhìn thấy hàng ngày mà không thèm liếc mắt. Cái cảm giác đặc biệt này thường trỗi dậy ngay sau ngày thứ hai đến một thành phố lạ.
Tôi sẽ thèm khủng khiếp (với cảm giác sẵn sàng đánh đổi bằng bất cứ giá nào) một bát bún ốc hay một đĩa bún chả chẳng hạn. Tôi cũng chẳng hiểu sao mình lại nên nông nỗi như thế.
1. Nhớ một lần, khi xe vừa đến thị trấn Seria, Brunei, tôi tình cờ nhìn thấy một chú gà đã luộc treo lủng lẳng trong tủ kính. Lúc đó đang là giữa trưa, tôi chẳng hề để ý gì đến cảnh vật mới lạ hay những tiếng gọi giục giã của trưởng đoàn, lập tức mắt tôi dán vào tủ kính và ứa nước miếng hệt một chú bé nghèo đói khát lần đầu từ quê lên phố nhìn thấy những món ngon trong quầy hàng. Lý do là vì chú gà này giống hệt những chú gà ở nhà, lại đã luộc rồi, lớp da mỏng vàng ruộm hứa hẹn một bàn tiệc thịnh soạn sau bao ngày phải tra tấn những bữa trưa, bữa tối kỳ quặc.
Về chuyện ẩm thực ở các xứ sở xa lạ, tôi đã viết nhiều ở các phần trước, nên có lẽ không cần phải nhắc lại nữa. Còn về “chú gà luộc trong tủ kính”, thì cũng phải nói thêm rằng tôi không chịu nổi món gà ở bất kỳ quốc gia nào ngoài Việt Nam.
Phần lớn các nước sử dụng gà công nghiệp cho thực đơn, hơn nữa, lại là gà công nghiệp đông lạnh, bỏ da, bỏ chân, bỏ cánh, mà món lườn gà công nghiệp đông lạnh tôi không coi đó là thức ăn, mà là một sự đầy ải thì đúng hơn, nó làm xấu hổ các món ăn cao quý được chế biến từ gà. Vì thế, khi nhìn thấy món ăn thượng hảo hạng trong tủ kính quầy hàng ở thị trấn Seria, bằng con mắt của người “sành gà”, tôi nhận ngay ra rằng chú gà này rõ ràng là đồng hương với lũ gà giò mổ thóc ở nhà.
Tuy nhiên, lâu ngày tôi đã học cách làm quen với việc không phải cứ thứ gì ao ước là được trở thành sở hữu của riêng mình, nên đành đoạn để cho trưởng đoàn tống vào một nhà hàng Trung Quốc mà gặm nhấm món màn thầu, cháo muối và cải chao xì dầu.
2. Nhiều người Hà Nội cũng cầu kỳ về ẩm thực. Sự cầu kỳ không hàm nghĩa sơn hào hải vị mà món ăn đó phải đúng gu, đúng kiểu. Nói gì thì nói, cứ bước chân ra khỏi Hà Nội, không dễ dàng tìm ra món bún riêu, bún ốc, phở, bánh cuốn… theo đúng nghĩa mà những từ đó gợi lên. Lúc ấy mới thấy thấm thía cái câu “sảy nhà ra thất nghiệp”.
Món ăn Hà Nội không chỉ là một nghệ thuật mà còn gắn liền với những kỷ niệm ấu thơ tôi. Còn nhớ 20 năm trước, lũ chúng tôi thường rủ nhau ăn sáng ở một hàng bún riêu gần góc phố Yết Kiêu – Nguyễn Du. Hồi ấy, đó là một trong những món ăn rẻ tiền nhất, quán này lại ngon, đương nhiên là địa chỉ quen thuộc cho bữa sáng.
Gạch cua được chế biến chắc nịch, rau sống thái rối trộn rau chuối, ớt bột chưng lên thơm gắt và không thể thiếu vị đặc trưng của mắm tôm. Tôi ăn sáng bằng bún riêu hầu như quanh năm ngày tháng. Nay bà hàng tóc đã bạc trắng, thỉnh thoảng gặp lại khách hàng trung thành giờ hầu không còn nét gì của đứa trẻ 12 tuổi nữa, bà vẫn kêu lên rằng “Cô không thay đổi gì mấy”.
Nói về sự trung thành với hàng quán có lẽ chăng tôi vẫn thua cha tôi. Hồi còn nhỏ, thỉnh thoảng ông vẫn đưa tôi lên hàng nộm rong ở phố Hoàn Kiếm. Đấy là con phố ngắn nhất Hà Nội, đã được đưa vào danh sách kỷ lục “phố ngắn”, nhưng chẳng cô gái Hà Nội nào mà lại không biết đến nó. Có khi họ đã quên tiệt tên phố Hoàn Kiếm mà gọi nó bằng “phố nộm”.
Cha tôi kể rằng ông ăn nộm ở đây từ hồi 10 tuổi. Thuở ấy có ông lão đẩy xe hàng đứng bán nộm bò khô. Tiếng lách cách của kéo cắt thịt bò là âm thanh đặc trưng cho biết hôm nay ông lão có đi làm hay không ngay khi người ta vừa mới rẽ qua phố Cầu Gỗ. Ông lão “cụ tổ” của “phố nộm” giờ chắc đã thành người thiên cổ. Và trong vô số các chủ hàng nộm váy ngắn áo demi tối đi đánh tennis không rõ cô nào là con cháu ông cụ.
Nghề bán nộm ở phố Hoàn Kiếm là một nghề hái ra tiền. Người ta chen chúc nhau vì nộm, người ta giận dỗi nhau vì (đưa) nộm chậm, người ta phấn khởi hoặc cáu kỉnh cũng vì nộm. Nộm ngày nay không giống thời xưa, ngoài thịt bò khô còn có đầy đủ cả xách bò, lá lách, chim quay, nem chua, bánh bột lọc nhân tôm…
Bún riêu cũng không còn nguyên vẹn như thuở tôi ăn sáng 20 năm về trước. Nó nghễu nghện cả ốc to, ốc nhỏ trong đó, rồi thì là thịt bò tái, giò tai, đậu phụ rán, quẩy…
Nhắc đến quẩy, 15 năm trước, phố Phan Bội Châu (góc Cửa Nam) đã từng là một “phố quẩy” chứ không phải phố giày dép hàng thùng như bây giờ. Cứ tối đến, nhất là những đêm mùa đông giá trời, nam thanh nữ tú nườm nượp kéo đến những chiếc ghế nhựa ăn quẩy nóng. Người ta bán 100 đồng con một chiếc quẩy bé xíu, ăn kèm nước chấm pha ớt trộn dưa góp. Đấy là món tuyệt ngon, đặc biệt dành cho lũ học trò ít tiền.
3. Không biết từ bao giờ, một dấu hiệu bất thành văn để quy định nhãn mác sành điệu trong giới tuổi teen Hà Nội là nắm trong tay tất cả các địa chỉ ăn uống sành điệu trong thành phố. Quần áo hàng hiệu, xe cộ thời trang cũng không là gì nếu như một cô nàng 18 tuổi lại không nghĩ ra nổi một địa chỉ nổi tiếng để… ăn phở buổi sáng.
Ẩm thực là một trong những niềm đam mê vô tận của giới trẻ. Cho dù năm 2010 đã nhan nhản các thương hiệu KFC, Lotteria, Pizza Hut, Pepperonis, Phở Vuông, Phở 24… trên đường phố Hà Nội thì người Hà Nội (không hiểu sao) dù sang trọng hay bần hàn vẫn khoái chí ngồi chen chúc trên vỉa hè trong khói bụi, trong tiếng ầm ĩ của còi xe, tiếng càu nhàu của người bán hàng đông khách và giữa ánh mặt trời khô rang của mùa hạ, những cơn gió thốc tháo lạnh tê của mùa đông.
Nhóm teen thì càng thích hơn nữa. Này nhé, ốc luộc Liễu Giai, Lương Văn Can; phở bò Lò Đúc, Bát Đàn, Tôn Đức Thắng; phở gà Mai Hắc Đế, Đỗ Hành, Triệu Việt Vương; bún riêu Hòe Nhai, Phan Bội Châu, Thi Sách; bún chả Hàng Mành, Nguyễn Khuyến; bún ốc Mai Hắc Đế, Ô Quan Chưởng; bún ngan Hai Bà Trưng; bún gà ngõ Hàng Chỉ; nem tai Cầu Gỗ; cháo lòng Lò Sũ, Hàng Thùng; cháo trai Lê Văn Hưu; bánh mì Yết Kiêu, phố Huế; bánh cuốn Tô Hiến Thành; bánh gối Lý Quốc Sư; bún thang Lương Văn Can, Hàng Lược, Cầu Gỗ; bún mọc Bảo Khánh; phở cuốn Trúc Bạch; mỳ vằn thắn Mai Hắc Đế, Đinh Liệt; bún bò chợ Hàng Da; miến lươn Mai Hắc Đế; xôi gà Cấm Chỉ; gà tần Tống Duy Tân, chân gà nướng Nguyễn Thái Học…
Thực ra, tôi cho rằng chỉ một phần ba những thương hiệu trên là xứng tầm ẩm thực. Tuy nhiên, cho dù thế nào thì những thương hiệu của họ cũng đã gắn liền với tên phố, đến độ cứ nhắc đến Bát Đàn là người ta thấy thoang thoảng mùi thơm nức của phở bò, nhắc đến ngõ Phất Lộc đã như nhìn thấy những miếng đậu vàng ruộm muốn ứa nước miếng.
Những năm vừa rồi, kinh tế thế giới suy thoái cứ việc suy thoái, còn người Hà Nội không thể kìm chế thú vui ẩm thực. Ăn uống trên vỉa hè cũng là một thú vui. Càng ngày càng nhiều món ăn du nhập vào Hà Nội làm tăng sự đa dạng của đất kinh kỳ vốn dĩ đã rất sành điệu về ẩm thực. Rồi người ta cũng sáng tác thêm rất nhiều món ăn lạ để kích thích thực khách.
Dù thế nào, người Hà Nội đi xa không thể không nhớ da diết cảm giác giữa đêm đông giá rét, thoảng đâu đây vị mật đang ứa ra từ những củ khoai lang nướng trên than củi ở một góc hè. Tôi viết bài này, khi mà va li đã sắp sẵn nơi cửa, khi mà vé máy bay và hộ chiếu đã đặt trong túi xách, để chuẩn bị cho chuyến đi đến một miền đất hoàn toàn mới lạ.
Tôi viết bài này, khi mà Hà Nội giờ rộng lớn và khổng lồ hơn trước, đi mải miết 40 cây số trải dài hai bên là đồng lúa hiu quạnh vẫn thấy dòng chữ Hà Nội trên một mái hiên quán hàng “Cơm phở bình dân”.
Tôi viết bài này, dẫu sao, như để lưu giữ phần hồn của phố ngay cả khi tôi đã bay đến tận nơi chân trời góc bể. Và tôi sẽ gọi “Hà Nội, ơi hồn phố”.
Lao động cuối tuần
Phạm Thúy Quỳnh đưa bài