Học giả Nguyễn Văn Vĩnh (Nguồn: Văin hóa Nghệ An)
… Người An Nam, nhân dân An Nam hoàn toàn không biết gì về chúng ta, tuyệt đối không biết. Đại đa số không hiểu chúng ta […]. Ngay từ đầu, tôi đã có may mắn được kết giao với một vài người An Nam nổi tiếng, cụ thể là với ông Nguyễn Văn Vĩnh, nhà văn lớn nhất của An Nam trong thời đại chúng ta. Chính ông đã dần dần cho tôi thấy cái vực ngăn cách chúng ta với đám đông người An Nam. Và chúng tôi phải tự hỏi bằng cách nào chúng ta mới có thể xóa bỏ được sự ngộ nhận hoàn toàn đó.
E. Vayrac, 1937
Tin ông Nguyễn Văn Vĩnh qua đời trên núi rừng nước Lào ngày 2 tháng 5-1936 hình như đã khiến mọi người ở Hà Nội bàng hoàng [1]. Quả thật là ai cũng biết người sáng lập báo L’Annam Nouveau (Nước Nam mới) năm 1931 và một trong những nhà báo và dịch giả văn học phương Tây của Việt Nam từ đầu thế kỷ XX, đã gặp những khó khăn nghiêm trọng về tài chính. Ngày 1 tháng Ba, ông buộc phải rời bỏ việc chỉ đạo tờ báo để tìm cách trả những món nợ chất chồng từ cuộc suy thoái kinh tế năm 1929.
Ngược lại, điều mà độc giả của ông không biết đến, là ông đang nợ những khoàn tiền lớn đối với Henri de Monpezat, ông chủ đồn điền nổi tiếng có tiếng là khó mà quên những món nợ của mình. Nguyễn Văn Vĩnh luôn luôn vấp phải những vấn đề tài chính. Sự việc tồi tệ đến mức cảnh sát đã được lệnh bắt giữ ông. Thất vọng, ông phải chấp nhận viết bài cho một trong những tờ báo của de Monpezat để đổi lại việc hoãn nợ. Ông được chấp thuận. Tháng Ba, ông rời bỏ việc chỉ đạo tờ L’Annam Nouveau. Rồi ông bán của cải, từ biệt vợ con để sang Lào đi tìm vàng và tiền cùng với người bạn lâu năm, ông Clémenti[2]. Luôn luôn tìm tòi và luôn luôn ngứa ngáy muốn viết, ông Vĩnh tiếp tục đánh dây thép gửi những bài phóng sự về xã hội và văn hóa Lào cho độc giả tờ L’Annam Nouveau [3].
Mọi người đều chờ đợi ông được vực dậy, như ông đã từng làm trong quá khứ. Nhưng trớ trêu của lịch sử, con người đã suốt đời bảo vệ một cách say mê cho sự cần thiết phải đưa khoa học và y khoa phương Tây vào Việt Nam, lại phải chết vì bệnh lỵ do không được chăm sóc, trong khi ông vẫn tiếp tục đi tìm vàng và tất nhiên là những cái khác nữa. Giống như một nhà văn anh hùng của ông, Alexandre Dumas, ông đã chết không một xu dính túi.
Tại sao lại có sự ngộ nhận đối với Nguyễn Văn Vĩnh?
Nguyễn Văn Vĩnh vốn dĩ là một con người “kỳ quặc”. Theo tôi nghĩ, ông là một nhân vật mà người ta bị cuốn hút ngay, bị hấp dẫn ngay vì đầu óc nhậy bén, vì trí thông minh tuyệt vời, với lòng tự tin kỳ lạ, hay ngược lại, bị xa lánh vì tính cao ngạo đôi khi cục bộ, bằng giọng châm biếm chua cay hay lối nhìn không mấy hay ho đối với phụ nữ và vai trò của họ trong xã hội [4].
Nguyễn Văn Vĩnh thời đó cảm thấy gò bó. Bảo rằng ông tự tin đúng hơn là một cách nói ngoa. Ông thích va chạm với những tư tưởng tiếp thu và tranh luận là điều tự nhiên đối với ông. Báo chí, niềm đam mê của ông, là một diễn đàn tranh luận, nơi trao đổi ý kiến, một phương tiện mà ông nghĩ có thể tấn công vào những vấn đề xã hội và chính trị của thời đại. Ông có thể bảo vệ lập luận về chế độ trực trị của Pháp đối với Đông Dương trên một trang, trong khi lại bảo vệ trên một trang khác những người nông dân chống lại sự bóc lột của quan lại, hay một người phu xe kéo chống lại sự hành hung của một tên thực dân người Pháp. Ông có thể phác họa một bức tranh hấp dẫn về văn hóa nông thôn Việt Nam, trong khi ngày hôm sau lại viết một tiểu luận ca ngợi trình độ cao của văn học Pháp[5].
Tất nhiên ông không phải là người duy nhất. Nhưng nếu Nguyễn Văn Vĩnh là một khuôn mặt xuất sắc của giới văn hóa giữa hai cuộc chiến, thì điều đáng được lưu ý là ông bị giới sử học hiện tại bỏ qua. Đối với sử học Nhà nước cộng sản sau năm 1954, cuộc đời ông tất nhiên đặt ra những vấn đề gai góc [6].
Suy ra, ông đã hợp tác chặt chẽ với chính quyền thuộc địa Pháp, bảo vệ chế độ trực trị của người Pháp ở Việt Nam (và cả Đông Dương). Việc ông lui tới các nhóm xã hội thuộc địa đã khiến cho ông không được những người là đồng bào của ông nhưng theo tư tưởng dân tộc chủ nghĩa chấp nhận. Thậm tệ hơn, dưới con mắt những người theo chủ nghĩa quốc gia, họ cho rằng ông đã chế diễu không thương tiếc một số phong tục và tập quán Việt Nam mà ông cho là lỗi thời và kém văn minh.
Nhưng một sự kiện khiến ông phải trả giá đắt hơn nhiều đối với việc bảo vệ những ký ức thời hậu thuộc địa: trong một cuộc tranh luận năm 1932 với một trí thức yêu nước, Huỳnh Thúc Kháng, ông Vĩnh đã đả kích kịch liệt trên những trang của báo L’Annam Nouveau một trong những nhân vật yêu nước vĩ đại của Việt Nam hiện đại – Phan Bội Châu – và gọi ông ta là nhà cách mạng nhỡ tàu và là kẻ xu phụ thảm hại[7]. Nói tóm lại, thời đó ông Vĩnh đã có nhiều kẻ thù trong những người quốc gia chủ nghĩa.
Lại càng khó giải thích sự thiếu vắng rõ ràng của Nguyễn Văn Vĩnh trong những nghiên cứu của người Pháp về văn học và văn hóa Việt Nam. Nếu Phạm Quỳnh luôn chiếm một vị trí đáng kể trong những nghiên cứu đó, thì ngoài cuốn Dẫn luận về văn học Việt Nam mà Maurice Durand có nhắc đến, ta tịnh không thấy cái tên Nguyễn Văn Vĩnh [8].
Ngay cả những tác giả đặt vấn đề “viết tiếng Pháp” trong sự tiếp cận lịch sử của mình, cũng không biết đến con người và công trình của ông, một cách lạ kỳ [9]. Sự sơ suất đó thật khó giải thích. Nói cho cùng, ông Vĩnh gắn với ý tưởng phải lấy ngôn ngữ và văn hóa Pháp làm nơi gặp gỡ với “hiện đại hóa”, rất lâu trước khi Bộ Pháp ngữ Pháp được thành lập khi chế độ thực dân Pháp đã được giải thể.
Nguyễn Văn Vĩnh được nói đến nhiều hơn trong các công trình tiếng Anh, dù cho những trích dẫn đó phần lớn chỉ hạn chế trong khái niệm của ông đối với phụ nữ và báo chí [10]. Có lẽ có một điều đáng lưu ý: những nghiên cứu tốt nhất về con người đó và tác phẩm của ông đều được viết sau năm 1954 ở nước Việt Nam Cộng hòa.
Một số đặc biệt của tạp chí Văn học (Sài Gòn, 1970) đã dành toàn bộ cho tác gia này, là một minh chứng xuất sắc [11]. Dù ở Việt Nam ngày nay đang có ý muốn phục hồi Nguyễn Văn Vĩnh, ta không biết rõ có phải ý đồ đó được gắn với chủ trương Pháp-Việt đối với Pháp ngữ hay là một ý đồ sâu xa hơn đối với những tư tưởng cho đến nay ít được nghiên cứu đến của ông về chính trị và văn hóa. Có lẽ là cả hai. Dù sao, ngoài những nghiên cứu thực hiện dưới thời Việt Nam Cộng hòa, cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Văn Vĩnh vẫn rất ít được biết đến.
Nguyễn Văn Vĩnh và những tiếp cận khác với “lịch sử thuộc địa” ở Việt Nam.
Sự việc không mấy ai quan tâm đến con người đó không phải là một lý do tự thân để tiến hành khảo cứu. Như vậy thì tại sao ngày nay lại phải viết về con người đó? Chúng ta phải tự nhận rằng, chúng ta bị lôi cuốn vào ý tưởng phải phục hồi con người gai góc đó, con người đã lượn lờ và quay cuồng trên vũ đài văn hóa của nước Việt Nam thuộc địa trước khi biến mất mãi mãi vì đi tìm vàng tại một nơi xó xỉnh nào đó của nước Lào. Vả lại, nếu cần phải tranh luận về những tư tưởng chính trị của Nguyễn Văn Vĩnh, thì chúng ta vẫn nghĩ rằng con người và cuộc đời của ông không phải chỉ giới hạn trong việc “hợp tác thuộc địa” hay trong sự đối lập sơ lược giữa kẻ “cai trị” với người “bị trị” và giữa “chủ nghĩa thực dân” và “chống thực dân”.
Qua những công trình dịch thuật, những kịch bản, những công trình báo chí, sự vận dụng tinh tế chữ quốc ngữ, ông đã hành động như một trong những người là cầu nối quan trọng nhất giữa văn hóa phương Tây được du nhập qua các chương trình thuộc địa, với nền văn minh Việt Nam mà ông tìm cách thay đổi ngấm ngầm. Với hai chân đứng trên hai thế giới đó, Nguyễn Văn Vĩnh đã sử dụng những phương tiện hiện đại của ấn loát và biên dịch để chuyển tải văn hóa phương Tây và phổ biến những tư tưởng hiện đại trong xã hội Việt Nam. Dù cho ông không bao giờ được chấp nhận lúc sinh thời, ông vẫn đã góp phần mở ra con đường đi tới một cuộc cách mạng văn hóa rộng lớn ở Việt Nam vào những năm 1930, một cuộc cách mạng mà trên mức độ nào đó, đã được khởi động lại ở nước Việt Nam cộng sản từ khi cuộc Đổi mới đã làm giảm nhẹ phần nào sự kiểm soát chặt chẽ những biểu hiện văn hóa đã được Nhà nước XHCN Việt Nam thi hành.
Nguyễn Văn Vĩnh cũng đã khiến tôi quan tâm vì ông chủ trương việc hiện đại hóa Việt Nam phải được thực hiện trong sự liên minh với nước Pháp. Nói như vậy không có nghĩa là hạ thấp Nguyễn Văn Vĩnh, để nhìn ông như một kẻ phản bội tổ quốc và một tên tay sai thân Pháp hay ngược lại đưa ông thành một nhà quốc gia chủ nghĩa “nói tiếng Pháp” hay một “nhà cách tân chân chính” không phải cộng sản.
Mối liên hệ giữa ông với thực dân Pháp đã được thiết lập. Ông quả thật là người phát ngôn chủ chốt và liên minh với quyền lực thuộc địa mà ông không phải là người duy nhất. Nhưng thay vì lên án ông ngay trên quan điểm chống thực dân, thì cần thiết phải đứng trên quan điểm đặt vấn đề lịch sử để hỏi tại sao ông lại quan niệm hiện đại hóa toàn diện Việt Nam dưới hình thức liên minh với các đề án thuộc địa Pháp ở Đông Dương.
Ngược lại, chúng ta có thể đặt một cái nhìn mới đối với một nhóm người Việt Nam đông đảo đã chủ trương hiện đại hóa và giải phóng chính trị cho Việt Nam dưới hình thức một khế ước với người Pháp. Chúng ta hãy nghĩ đến Phan Châu Trinh, Bùi Quang Chiêu, Phạm Quỳnh, Huỳnh Thúc Kháng và nhiều người khác (kể cả Nguyễn Ái Quốc trong giai đoạn đầu). Toàn quyền Albert Sarraut đã làm họ tăng thêm hy vọng bằng lời hứa hẹn một sự tiến hóa chính trị đi tới khả năng tự trị, mà ngày nay chúng ta biết, không phải được thực hiện dễ dàng. Nhưng thực ra vào đầu thế kỷ XX không ai biết được hình hài của nó.
Nguyễn Văn Vĩnh là một ví dụ rõ rệt về một con người bị cuốn vào trong vòng phức tạp của chế độ thuộc địa. Ông không phải là một nhà cách mạng chống thực dân, và ngược lại. Nhưng dù cho chủ nghĩa cộng sản và độc lập dân tộc là những dữ kiện tiên quyết, thì đấy không phải là những chủ đề tranh luận duy nhất, cũng không phải là viễn cảnh tương lai duy nhất: văn hóa, tôn giáo, kỹ thuật, kinh tế và bình đẳng xã hội cũng là những phương tiện hoạt động có tầm quan trọng ngang nhau[12].
Chúng ta hãy dành việc nghiên cứu sâu hơn những tư tưởng chính trị của Nguyễn Văn Vĩnh về sau. Điều chúng ta quan tâm ở đây là những hoạt động xã hội-văn hóa của ông giữa những thực tế phức tạp của chế độ thuộc địa.
Nguyễn Văn Vĩnh
Nguyễn Văn Vĩnh sinh ở làng Phượng Vũ, tỉnh Hà Đông, ngày 15 tháng 6-1882[13]. Đáng tiếc là ta ít biết về cha mẹ ông, về cuộc sống gia đình hay thời tuổi trẻ của ông. Theo Neil Jamieson thì ông xuất thân trong một gia đình “nông dân bình thường”[14].
Ông kết hôn nhiều lần trong cuộc đời, đặc biệt là với một phụ nữ Pháp rất trẻ. Một trong những người con của ông là Nguyễn Giang, trở thành nhà báo và dịch giả có tên tuổi trong những năm 1930 và 1940. Một người khác, Nguyễn Nhược Pháp là một nhà thơ nổi tiếng. Ngược lại chúng ta biết chắc chắn rằng ông Vĩnh đã bị cuốn hút rất sớm về báo chí, về tính hiện đại của phương Tây và quyết tâm phát triển nó ở Việt Nam.
Lên 10 tuổi ông đã có một trình độ tiếng Pháp rất khá. Đến tuổi 14 ông tốt nghiệp trường Thông ngôn. Sau đó ông gia nhập vào giới quan trường mới Đông Dương, trở thành thư ký tại các công sở thuộc địa ở Lào Cai, Kiến An, Bắc Ninh và cuối cùng là tại tòa sứ Hà Nội năm 1906. Trong cuộc di chuyển đó, đặc biệt là ở Kiến An gần cảng Hải Phòng, ông Vĩnh có dịp làm quen với nhiều người nước ngoài, khiến ông bắt tay vào học tiếng Trung Hoa và tiếng Anh. Ông đã bắt đầu học chữ Hán và chữ Nôm. Theo lời một người bạn cũ, thì ông Vĩnh bị ám ảnh bởi sách báo và vấn đề ngôn ngữ. Đầu năm 1906, vì những lý do vẫn đang là khó hiểu, ông từ chức ở công sở để quay trở về với gia đình, với bạn bè thời trẻ và nhất là với sách vở [15].
Nhưng ông không ở yên lâu. Tính hiếu kỳ đã đưa ông đến với những nhóm trí thức như “Hội Trí Tri” và “Trường Tự do Bắc Kỳ”, được biết dưới cái tên Đông Kinh nghĩa thục. Sự muốn đi Pháp. Người Pháp có sẵn ấn tượng tốt vì thấy ông thông minh và giỏi tiếng Pháp, đã cử ông đến Marseille năm 1906 trong phái đoàn Việt Nam tham gia Hội chợ thuộc địa. Nhân dịp đó, lúc 24 tuổi, ông đã phát hiện ra sân khấu Pháp, kỹ thuật in ấn hiện đại, báo chí và uy lực của nó trên mặt trận văn hóa. Ông say sưa tranh luận với những nhà báo Pháp ông gặp ở Triển lãm thuộc địa về tầm quan trọng của báo chí và ngành in[16].
Trong một bức thư tháng 8 gửi cho người bạn thân là Phạm Duy Tốn, ông Vĩnh nói về sự thích thú khi ông được xem diễn vở Le Cid. Ông nói đến tác động của cách dựng cảnh của vở diễn, ông nhấn mạnh mang tính sự kiện rằng, nó có hiệu quả cao hơn nhiều khi đọc sách đơn thuần. Cũng trong chuyến đi đó, hình như ông đã quyết tâm giành cho mình một vai trò quan trọng trong việc canh tân đất nước Việt Nam[17]. Chàng thanh niên Nguyễn Văn Vĩnh hẳn rất tin vào sự lựa chọn của mình, vì sau khi trở về nước, ông lao vào công việc mở nhà in và lập báo chí kiểu châu Âu ở Việt Nam.
Trường hợp của ông tất nhiên không phải là đơn nhất. Một nhóm trí thức Việt Nam đã tập hợp xung quanh nhà bác học và nhà yêu nước nổi tiếng Phan Châu Trinh, đã mang nhiều kỳ vọng trong việc sáng lập Đông Kinh nghĩa thục. Nó nhằm thúc đẩy cuộc canh tân xã hội và văn hóa Việt Nam theo tiêu chuẩn phương Tây. Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Duy Tốn, cả hai đều là thành viên của nhóm trí thức đó chủ trương canh tân Việt Nam bằng công cụ của phương Tây.
Ở tột đỉnh những yêu cầu của họ, ta thấy tầm quan trọng phải phát triển chữ Quốc ngữ thay cho chữ Hán, dạy tiếng Pháp và phổ biến các khái niệm phương Tây về khoa học, thể thao, giáo dục, thương mại và công nghệ đối với toàn thể dân chúng. Ông Vĩnh đã ra sức bảo vệ tầm quan trọng của giáo dục thể chất và truyền bá khoa học kỹ thuật. Tất nhiên ông dạy tiếng Pháp. Sách gối đầu giường của nhóm đó là cuốn Văn minh tân học sách.
Năm 1907, Phan Châu Trinh gửi cho ngài Toàn quyền Paul Beau một loạt kiến nghị nhằm cải cách xã hội Việt Nam trong lĩnh vực giáo dục, lĩnh vực này nên dạy tiếng Pháp. Tuy nhiên cũng có những dự án phát triển nông nghiệp và Âu hóa trang phục truyền thống. Bị hấp dẫn bởi các tư tưởng cộng hòa, Phan Châu Trinh đã bắt đầu đánh thẳng vào những gì kìm hãm sự phát triển của đất nước Việt Nam, mà theo ông, hiện thân chính là nền quân chủ ở Việt Nam và hệ thống quan lại của nó. Chỉ một năm sau đó, giới quan lại đã làm bằng mọi cách để ông không thể trở lại cuộc sống bình thường từ nhà tù Côn Đảo 18.
Nguyễn Văn Vĩnh đã lấy những yêu sách đó làm nền tảng cho tư tưởng chính trị của mình suốt cuộc đời còn lại. Ta không biết chính xác lý do nào đã khiến ông sớm hận thù đối với giới quan lại. Có lẽ nó gắn với nguồn gốc bình dân của ông, với sự bần cùng của nông dân Việt Nam mà ông là người chứng kiến với tư cách là công chức ở xa thành phố, với sự loại bỏ ông ra khỏi hệ thống quan trường, hay có lẽ là vì ý muốn tiến thân nhanh chóng hơn trong một hệ thống “Âu hóa” mà ông hiểu rõ nét hơn.
Giống như Phan Châu Trinh, Nguyễn Văn Vĩnh sớm bị cuốn hút về những ý tưởng cộng hòa của Pháp. Ông tham gia chi hội của Liên đoàn Nhân quyền ở Hà Nội năm 1906 hay 1907. Được thành lập ở Hà Nội năm 1903, Liên đoàn chủ trương khuyến khích những tư tưởng cộng hòa Pháp ở thuộc địa, điều tra về sự lạm quyền của chủ nghĩa thực dân và phổ biến những tư tưởng mới như những quyền và tự do cá nhân, “quyền công dân” và “sự bình đẳng”.
Khi Đông Kinh nghĩa thục bị người Pháp đóng cửa năm 1907 và Phan Châu Trinh bị bắt, vì bị nghi là giữ vai trò xúi giục những vụ bạo loạn của nông dân trong năm đó, Nguyễn Văn Vĩnh đã đấu tranh trongLiên đoàn để đòi giải thoát cho người thầy của mình. Cũng chính trong Liên đoàn mà Nguyễn Văn Vĩnh đã làm việc cùng với những nhà tư tưởng tự do như Félicien Challaye, Louis Caput, Marc Casati và Francis de Pressencé. Ông còn có quan hệ bạn bè với người chiến sĩ cộng hòa Ernest Babut[18].
Tất cả những người Pháp đó đều đã tìm cách đánh động với chính phủ ở chính quốc quan tâm đến những nghĩa vụ của một nền cộng hòa đối với những nước thuộc địa. Thế nhưng, đúng như Daniel Hémery từng nhấn mạnh: Họ đã đặt vấn đề khuyến khích “cải cách thuộc địa” nhờ vào nước Pháp nhiều hơn là cổ vũ “chống chủ nghĩa thực dân”. Các hội viên đã chấp nhận chế độ thực dân của người Pháp như là một việc đã rồi, chứ không chấp nhận những hành vi quá đáng của nó.
Nếu như vậy, Hội Nhân quyền khó mà kết nạp được những người Việt Nam vào đội ngũ của mình, một trong những sự hiếm hoi này, chính là Nguyễn Văn Vĩnh chứ không phải ai khác. Nhà trí thức trẻ tuổi này nhất định đã gây được ảnh hưởng sâu rộng bằng những cuộc tranh luận và những tư tưởng mà Hội đã từng chuyển tải từ đầu những năm 1900. Một trong những tư tưởng quyền lực của Hội đối với Đông Dương là, khuyến khích một quan niệm cộng hòa về hành động thuộc địa và cai trị các thuộc địa bằng một sự kiểm soát sáng suốt, vừa “trực tiếp” vừa “thường trực” (23). Nguyễn Văn Vĩnh sẽ chứng minh cương lĩnh chính trị của mình theo một cách tương tự trong hai thập niên về sau.
Nguyễn Văn Vĩnh còn tiếp xúc với các hội viên Hội Tam điểm Pháp ở Đông Dương (Franc-macon), những người ủng hộ nền cộng hòa và chống giáo hội, giống như khi Nguyễn Ái Quốc ở Paris (24). Ông Vĩnh đã thực hiện việc này trong những năm 1920, bằng sự ra nhập “Hội Nhân quyền”, thuộc chi hội “Tam điểm Khổng tử”, còn được gọi là “Chi hội Quốc tế hỗn hợp”, tức phân chi hội Việt Nam “Đại Đông phương” ở Hà Nội.
Khi ông Vĩnh qua đời, Chi Hội này đã đứng ra tổ chức lễ tang để bày tỏ lòng tôn trọng đối với ông. Một lần nữa, những việc ông làm không ở bên lề. Theo dấu chân ông còn có Phạm Huy Lục, Phạm Quỳnh, Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Luận, Bùi Quang Chiêu và một nhóm người Việt Nam là tinh hoa, ưu tú khác.
Một lần nữa, nếu một số người Pháp là hội viên Tam điểm ở Đông Dương không muốn chấp nhận việc kết nạp vào hàng ngũ của mình những người bản xứ vì bị coi là “chưa đủ tiến hóa”, thì dù sao việc mở cửa cho những người Việt Nam ưu tú trong những năm 1920 đã cho phép mở ra những cuộc trao đổi mới về tư tưởng và suy nghĩ chính trị đối với sự phát triển của Việt Nam và vị trí của nó trong dự án thuộc địa (25). Năm 1925, Hội Nhân quyền công bố bản tường trình của Phạm Quỳnh khởi thảo, mà theo Jacques Dalloz thì ông ta đã bảo vệ các tư tưởng chống thực dân của một trong những người lãnh đạo chủ chốt của Hội (26) là F.Challaye. Những tư tưởng lưu hành trong các tổ chức cộng hòa đó, không thể không khiến Nguyễn Văn Vĩnh quan tâm, nhất là khi ông vốn sẵn tư tưởng chống đối nền quân chủ.
Mặc dù đã cống hiến rất nhiều thời gian cho cho các hoạt động văn hóa và xã hội, Nguyễn Văn Vĩnh vẫn đủ thời gian cho hoạt động chính trị. Ở tuổi 25, ông bắt đầu con đường chính trị bằng tư cách là thành viên của Hội đồng thành phố. Ông là thành viên của Đại Hội đồng kinh tế Lý tài. Năm 1913, ông được bầu vào Viện Dân biểu Bắc kỳ, chính Viện này, đã cử ông sang dự Hội chợ thuộc địa (Đấu xảo) ở Mác Xây năm 1922.
Cũng thời kỳ này, Nguyễn Văn Vĩnh đã lại tiếp xúc với Phan Châu Trinh tại Pháp. Bằng sự quan hệ, cộng tác trước đó, hai người tin vào lời hứa sẽ tự do hóa chính trị của Allbert Sarraut, cả hai đều khinh ghét và miệt thị nền quân chủ và quan trường, hẳn Nguyễn Văn Vĩnh đã tìm thấy ở Phan Châu Trinh vai trò của một cố vấn chính trị, để giúp ông tìm con đường cho công cuộc cải cách chính trị cho Việt Nam. Sau cùng, chính Phan Châu Trinh vào năm 1922, trong một bức thư gửi cho Nhà Vua Khải Định, ông viết bằng mực tím và đả kích kịch liệt chế độ quân chủ Việt Nam, kết án là chuyên chế, cản trở mọi xu hướng canh tân chính trị, xã hội và văn hóa của đất nước.
Khả dĩ để cứu được Việt Nam thoát khỏi mối hiểm họa thực dân (27) Phan Châu Trinh đã phát đi chính xác những tư tưởng mà Nguyễn Văn Vĩnh vẫn mong được nghe thấy. Nhưng, trong bản tuyên ngôn mà ông sẽ giới thiệu sau đó trên tờ báo “L’Annam Nuoveau” năm 1931, ông còn đẩy các tư tưởng của Phan Châu Trinh đi xa hơn rất nhiều (28).
Cuộc cách mạng văn hóa của Nguyễn Văn Vĩnh.
Nhà in
Cho đến cuối những năm 1920, Nguyễn Văn Vĩnh quan tâm đến canh tân văn hóa hơn là cách mạng chính trị. Từ năm 1907, ông trở nên mạnh dạn nhờ sự khám phá của ông về nước Pháp, về ngành in hiện đại, về báo chí và tác dụng cũng như sự tác động của nghệ thuật vào những đột biến trong xã hội.Ông Vĩnh đã tập trung tâm huyết vào việc xúc tiến một cuộc cách mạng văn hóa và xã hội trước một xã hội cổ truyền của người Việt Nam mà ông dựa vào các tư tưởng của người Pháp. Báo chí, dịch thuật, sân khấu và phim ảnh sẽ trở thành thứ vũ khí mới trong cuộc đấu tranh này (mà cũng là một cuộc chiến chính trị).
Nguyễn Văn Vĩnh học nghề in ấn ngay trong công việc, rõ ràng là không được đào tạo từ trước. Tình bạn lâu năm với Ernest Babut, nhất là với F.H.Schneider, một chủ nhà in nổi tiếng, người thường cộng tác với báo chí bản địa, đã giúp cho Nguyễn Văn Vĩnh sớm nắm bắt được những nguyên lý của nghề báo. Khoảng từ những năm 1910, do cộng tác với Schneider, ông lập ra Phổ thông giáo khoa thư xã. Chủ yếu là là để lập ra một bộ sưu tập, từ đó xuất bản sách in bằng chữ Quốc ngữ, nhằm nuôi dưỡng một lớp bạn đọc người Việt mới xuất hiện.
Trong những năm 1920, ông lại cộng tác với E.Vayrac để phát hành một loạt sách còn rộng rãi hơn trước với tiêu đề Âu Tây tư tưởng. Đươc trợ cấp từ Chính phủ một phần, và chính ông đã bỏ tiền túi để đầu tư vào các hạng mục thiết bị kỹ thuật in ấn hiện đại, với giấy in, mực in, hóa chất đều nhập khẩu từ Châu Âu.
Khi ông sang Pháp năm 1922, ông thường tìm cách “trốn” khỏi những điều được gọi là mới lạ của cuộc Đấu xảo thuộc địa chỉ nhằm trưng bày và trói chặt hình ảnh một Việt Nam cổ hủ mà ông rất ghét, và để chuyên tâm đi tìm mua sắm những thiết bị mới phục vụ cho kỹ nghệ in ấn. Ông lặn lội sang cả nước Đức để mò mẫm(29).
Dịch thuật
Nhờ những thiết bị ấn loát này, Nguyễn Văn Vĩnh đã chiếm được một vị trí chiến lược để lao vào một cuộc chiến đấu trong mặt trận văn hóa trọng đại. Ông dịch các tác phẩm văn học, chính trị quan trọng của Châu Âu. Nguyễn Văn Vĩnh thuộc những người đầu tiên ở Việt Nam (sau Trương Vĩnh Ký và Huỳnh Tịnh Của) đã nhận thức được cái tiềm năng hiện đại nhờ dịch thuật đem lại, và để bắc một cây cầu nối văn hóa Đông và Tây.
Qua việc truyền bá này, ông hy vọng với những tiểu thuyết dịch của phương Tây sẽ tác động đến sự thay đổi tâm thức của người Việt. Ông đã công bố nhiều bản dịch lỗi lạc các tác phẩm ưu tú của nền văn học Pháp, đặc biệt là Trưởng giả học làm sang, Những người đàn bà thông thái, Lão hà tiện, Người biển lận, Người Bệnh tưởng của Molière, Những kẻ khốn nạn của Victor Hugo, Truyện ngụ ngôn của La Fontaine, Ba người lính Ngự lâm pháo thủ của Alexandre Dumas, cùng với những tác phẩm của nước Anh như Qui-li-ve du ký của Jonathan Swift và nhiều cuốn sách khác[19].
Người ta biết, rằng ông có ý định giới thiệu nền văn hóa Pháp với người dân Việt khi ông bắt tay vào việc dịch các bản sách đó. Song, dưới con mắt của ông, nó còn hơn như vậy. Bản thân nghệ thuật dịch đã là điều quan trọng, bởi lẽ đó là thứ công việc chuyển tải các hệ tư tưởng từ một loại ngôn ngữ này sang một loại ngôn ngữ khác, đi xuyên qua những vùng văn hóa rộng lớn và khiến cho hệ tư tưởng này trở nên dễ hiểu đối với một hệ khác.
Nếu có một loại phương tiện làm được công việc chuyển giao văn hóa thì đó chính là dịch thuật. Đương nhiên, đã từng có những thông dịch ở đất nước Việt Nam thời “tiền thuộc địa”. Họ là những người được ủy thác việc tiếp xúc giữa số đông những nhà buôn Á và Âu, các nhà ngoại giao, giúp những người này làm quen với chữ Hán, họ thành những tác giả để các vị khách kia trở nên gần gũi với người Hoa và đạo Khổng;
Vậy là, chính công cuộc thuộc địa của người Pháp đã kết nối nước Việt với một vũ trụ văn hóa rộng lớn, không phải chỉ với Pháp, còn nước Anh, Mỹ và thậm chí còn nhiều hơn thế. Bỗng nhiên, cả một thế giới văn hóa hoàn toàn mới lạ từ đâu ập đến, mở rộng chân trời cho người Việt Nam. Không có những người đứng ra làm công việc nối liền hai thế giới đó, ắt sẽ không có chuyện thâm nhập và hiểu biết lẫn nhau. Dù cho tiếng Pháp ngày càng được dạy nhiều trong các trường học, số đông công chúng đọc chữ Quốc ngữ vẫn tiếp tục phát triển tăng lên suốt thời kỳ thuộc địa.
Nói vậy, thật khó để ước lượng được số người đã tìm đọc các tác phẩm kinh điển của phương Tây đã được Nguyễn Văn Vĩnh dịch sang tiếng Việt. Trước hết, tỷ lệ những người Việt Nam đọc thông thạo chữ Quốc ngữ đã không ngừng tăng lên sau Thế chiến thứ Nhất. Hơn nữa, cũng khó để biết một cách chính xác các bản dịch của Nguyễn Văn Vĩnh đã được phát hành với số lượng là bao nhiêu?!
Chúng ta chỉ có thể dựa vào những con số thu thập được như sau: Năm 1916, tập Truyện ngụ ngôn của La Fontaine xuất bản với số lượng là 2.000 bản, rồi năm 1928 lên đến 5.000 bản, và vẫn con số đó được lặp lại vào năm 1951. Cuốn sách Ba chàng ngự lâm pháo thủ, xuất bản năm 1927 là 2.000 bản.
Đúng, những chỉ số này không phải là ấn tượng, nhưng cần nhớ rằng, sách là thứ thường được chuyền tay giữa mọi người, bạn bè, họ hàng, hoặc láng giềng với ý thức cho mượn một cách vô tư. Vả lại, việc học chữ viết tiếng Việt lúc này không phải là điều quá khó để vượt qua với một người Việt Nam bình thường.
Những thế hệ trẻ hơn ở thành thị, họ ngày càng sử dụng thành thạo tiếng Pháp hơn, họ thích đọc các tác phẩm đó bằng nguyên văn tiếng Pháp. Vậy nhưng, theo lời một số người trong thế hệ mới đó, họ đã tìm đọc các bản dịch của Nguyễn Văn Vĩnh bằng chữ Quốc ngữ trước khi tìm đọc bản nguyên văn tiếng Pháp. Nhiều người trong số họ đã ca ngợi sự thành công của Nguyễn Văn Vĩnh khi ông cải biên hoặc chuyển đổi những nhân vật trong sách, kể cả cách suy nghĩ của nhân vật thành những sự tương đồng trong văn hóa Việt Nam. Nếu như vậy, thì đây không phải là một thành tựu nhỏ về văn hóa của Nguyễn Văn Vĩnh.
Những bản dịch của Nguyễn Văn Vĩnh còn giữ vai trò quan trọng vì những lý do khác nữa. Nếu Nhất Linh sử dụng tiểu thuyết hiện đại của phương Tây ưu tiên làm vũ khí văn học để tấn công vào những hủ tục, thì chúng ta hãy nghĩ rằng, Nguyễn Văn Vĩnh lại đặc biệt chú ý đến những thông điệp chính trị-xã hội mà ông muốn gửi đến các độc giả của mình khi chọn các vở kịch và tiểu thuyết Pháp để dịch sang Quốc ngữ.
Nếu các tác phẩm đó được dịch sang tiếng Việt một cách xuất sắc, thì hình như, ông mong muốn chuyển hóa những câu chuyện của người Pháp, cùng những khái niệm mang tính hiện đại sang tinh thần Việt Nam, thông qua cách nhấn mạnh vào tất cả những cái trào lộng, cái hài hước, cái mánh khóe mà nó chứa đựng trong câu chuyện đó. Có thể nói, bằng cách nào đó, ông đã sử dụng chính các tác giả đó để phê phán thay cho chính ông.
Ví dụ, ta thấy Nguyễn Văn Vĩnh đã đả phá gay gắt chế độ vua quan như thế nào và ai cũng biết ông chẳng hề tôn trọng cái chế độ Quân chủ Việt Nam! Phải thừa nhận rằng, không ngẫu nhiên ông chọn và dịch tậpTruyện ngụ ngôn (1668) của La Fontaine, mà chúng ta đều biết La Fontaine đã lấy vai các con vật để đả kích xã hội Pháp ở thế kỷ 17, đặc biệt với nhà Vua và các cận thần. Giống như Molière, La Fontaine coi triều đình là nơi đầy rẫy những kẻ ăn bám và lừa đảo, chỉ làm tăng thêm sự bần cùng khốn quẫn của dân chúng, trong lúc họ vẫn nghĩ rằng đó là một sự cai trị tốt.
Những vở hài kịch và sự châm biếm để đả kích vào cái xã hội xúc vật, thực ra là để chế diễu sự bất lực và tham nhũng của nền quân chủ Pháp và lũ người nịnh thần của nó. Nguyễn Văn Vĩnh không đặt được thẳng trước vấn đề thuộc địa của người Pháp, tuy nhiên, cũng như Molière, ông đã đánh trực tiếp vào chế độ quân chủ của xã hội Việt Nam một cách không khoan nhượng.
Khá nhiều những công trình dịch thuật của Nguyễn Văn Vĩnh cũng chuyển tải các tư tưởng bài xích và chống lại chế độ quân chủ ấy. Cụ thể, nó cũng đã được phát đi từ tác phẩm Gulliver du ký của Jonathan Swift. Nhìn vào cuốnTelesmaque phiêu lưu ký của Fénelon cũng vậy, cuốn sách đã từng bị vua Louis 14 cấm ngay sau khi nó được phát hành từ năm 1699, vì bị coi là diễu cợt vương triều. Trước đó mấy năm, Fénelon đã viết một bức“thư gửi vua Louis 14”, bức thư không vòng vo, ông nói không úp mở vào thẳng cái đói nghèo của tầng lớp nông dân Pháp, và về sự tất yếu phải có cuộc cách mạng “cải cách tự do”.
Nguyễn Văn Vĩnh cũng hành động giống như vậy, chống lại lũ tham quan ở xứ An Nam, nhất là Bắc kỳ (ông quan niệm như vậy). Thật khó mà tin rằng, những suy nghĩ của Fénelon trong cuốn Telesmaque phiêu lưu ký về một chính quyền tốt, cùng các quyền tự nhiên của một xã hội, lại không có liên hệ gì với những tư tưởng của Nguyễn Văn Vĩnh, vốn từ lâu, ông đã rất quan tâm đến thực trạng của người nông dân nước mình và ông lại là kẻ luôn hướng theo những tư tưởng cộng hòa Pháp, mà ông là người đã gặp gỡ họ tại Hội Nhân quyền và Hội Tam điểm. Việc ông dịch cuốn Những người khốn khổ của Victor Hugo, còn thể hiện một mối quan tâm xã hội khác của một con người đã tìm thấy chính mình trong những bài viết có chuyên đề về làng xã và về những thực trạng nghèo khổ đang ngự trị ở đó (30).
Tuy nhiên, Nguyễn Văn Vĩnh không chỉ giới hạn trong việc dịch thuật các tác phẩm từ Pháp ngữ. Ông không phải là người có chủ trương “đồng hóa”. Từ năm 1909, cùng với Phan Kế Bính, ông đã cho xuất bản toàn bộ bản dịch bộ tiểu thuyết cổ điển Trung Hoa Tam Quốc chí diễn nghĩa bằng chữ Quốc ngữ. Ông cũng dịch tác phẩm nổi tiếng của Nguyễn Du Kim Vân kiều vốn có bản gốc là chữ Nôm. Nguyễn Văn Vĩnh đã thường xuyên xem đi xem lại và không ngừng hoàn thiện bản dịch này từ năm này qua năm khác. Năm 1923, tác phẩm này đã được in lại lần thứ bẩy với số lượng phát hành là 30.000 bản. Qua thực tế này, ta thấy Nguyễn Văn Vĩnh không chỉ truyền bá văn hóa Pháp ở Việt Nam, mà ông còn giúp cho công chúng tại Việt Nam hiểu thêm những tác phẩm kinh điển của chính đất nước mình.
Lịch sử trớ trêu, bởi sau khi chữ Nôm không còn được sử dụng rộng rãi, phần nào họ bị mất liên lạc về ngôn ngữ, như thế, cũng có thể nhìn Nguyễn Văn Vĩnh là người đã góp phần vào sự gián đoạn ấy, nhất là khi ông cổ xúy cho chữ Quốc ngữ và đề cao lòng tin vào những bản dịch các tác phẩm hiện đại đến từ nước Pháp. Nhất định, ông hiểu tầm quan trọng của việc mình làm: việc chuyển câu chuyện Kim Vân Kiều sang Quốc ngữ theo dạng truyền viết, thay vì truyền miệng. Cũng đương nhiên mang đầy ý nghĩa là việc ông đã không dịch tác phẩm đó ra tiếng Pháp trước.
Bản dịch Kim Vân Kiều lại càng có tầm quan trọng với Nguyễn Văn Vĩnh, khi nó được chế tác thành kịch bản điện ảnh. Đây là bộ phim truyện được xây dựng đầu tiên ở Việt Nam và phát hành tại Hà Nội năm 1924, nhờ Paul Thierry và xưởng phim Indochine Films et Cinéma của ông (32). Sau đó, bộ phim này đã đưa đi chiếu khắp đất nước. Nguyễn Văn Vĩnh cũng là người đầu tiên du nhập sân khấu phương Tây vào Việt Nam, đó là năm 1920, khi ông đưa lên sân khấu công diễn vở kịch Người bệnh tưởng. Việc chuyển tải vở kịch của Molière sang tiếng Việt của Nguyễn Văn Vĩnh hình như đã thành công lớn. Trong những năm 1920 và 1930, loại hình nghệ thuật sân khấu tiếp tục phát triển song song cùng nhịp với công nghiệp điện ảnh ở Việt Nam.
Vậy nhưng thế hệ trẻ còn đi xa hơn cả Nguyễn Văn Vĩnh, thay vì phải vay mượn và cải biên từ các vở kịch hay tiểu thuyết Pháp đưa vào thực tế Việt Nam qua các bản dịch, những chiến sỹ mới như Vũ Trọng Phụng và Nhất Linh đã dựng những vở kịch của mình trên sân khấu Hà Nội
( Không một tiếng Vang của Vũ Trọng Phụng) và tấn công vào hàng ngũ quan lại Việt Nam qua cuốn tiểu thuyết ( Đoạn tuyệt của Nhất Linh). Chưa thấy có khi nào mà Nguyễn Văn Vĩnh lên tiếng hoan nghênh thành quả của lớp trẻ đi sau ông, những người kế tục ông. Thật là sự sai lầm khi ông vẫn tự coi mình chỉ là người trung gian duy nhất làm công việc kết nối, dung hòa các hình thức nghệ thuật giữa phương Tây và Việt Nam.
Đương nhiên, khi chú tâm dịch các tác phẩm từ tiếng Pháp đó, Nguyễn Văn Vĩnh đã đóng góp tích cực để phát triển một nền văn học thuần Việt. Những loại hình văn hóa mới như hài kịch, bi kịch, sân khấu châm biếm mới được du nhập vào hàng ngũ những di sản văn hóa của Việt nam, mặc dù đã khá phong phú, nhưng những thể loại nghệ thuật này còn đang khó khăn trong việc tiếp thu nó. Để phát triển loại văn trào phúng, châm biếm, cũng như để phát triển sân khấu hiện đại Việt Nam, các bản dịch các tác phẩm của Molière, đặc biệt như: Người bệnh tưởng, Trưởng giả học làm sang là thực sự quan trọng.
Trưởng giả học làm sang đã được trình diễn lần đầu ở Pháp năm 1670, chế diễu một gã thương nhân, một kẻ giàu mới nổi, gã Jourdain tai tiếng, luôn chỉ băn khoăn làm sao để leo được lên nấc thang xã hội cao nhất, chỉ mê mải với những phách lối nực cười nhất. Để đạt được mục đích, gã sẵn sàng chi những khoản tiền kếch xù, hòng để học cái phong cách, lề thói của sự văn minh, những cung cách lịch thiệp, và những cái gã cần để thâm nhập được vào một thế giới, một đẳng cấp, một trình độ văn minh xa lạ với chính ông ta. Theo như Alexander Woodside từng nhấn mạnh một cách tuyệt vời rằng: Nguyễn Văn Vĩnh đã biến vị Trưởng giả Pháp đó thành một viên quan Việt nực cười, lố lăng, chẳng thua kém gì cái gã Trưởng giả Pháp đến mức, rồi đây, không biết có nên hay không nên mặc bộ áo dài lễ phục trong các buổi lễ tân…Như Woodside đã bình luận :
“Hình như hình ảnh lố lăng của một tay trưởng giả muốn trở thành quý tộc đang lung lay, dao động (hay là của một kẻ người Việt như gã) đang tìm cách cố học đòi những lề lối của cung cách văn minh hơn đã tác động và tạo thành sự bận tâm và tham vọng chung của một số trí thức người Việt thời kỳ đó. Chí ít, điều này đã củng cố cho cái trực cảm chung của họ, đến độ, ngay các trò hề của gã Jourdain của Molière cũng có thể tạo cho họ chiếc chìa khóa về phương cách, để có hay không có được những phản xạ khôn ngoan hơn, biết đâu hữu hiệu hơn trong hành xử”(31).
Nguyễn Văn Vĩnh, chữ Quốc ngữ và công chúng Việt Nam 33
Thành lập và phát triển một tờ báo in Quốc ngữ là phương thức khác trong chương trình xã hội-văn hóa mà Nguyễn Văn Vĩnh bắt tay thực hiện. Ông không phải là người đầu tiên thừa nhận tầm quan trọng của loại chữ viết tiếng Việt được La tinh hóa, sản phẩm của các giáo sỹ Dòng tên Bồ Đào Nha, rồi đến các giáo sỹ Pháp củng cố xây dựng. Pétrus Trương Vĩnh Ký, một người công giáo đã hoạt động rất nhiều để phổ biến chữ Quốc ngữ giai đoạn cuối thế kỷ 19. Gia Định báo là tờ báo hiện đại đầu tiên ở Việt Nam đã in bằng chữ Quốc ngữ cùng với chữ Nho.
Vậy nhưng, Nguyễn Văn Vĩnh đã đẩy bước đột phá này đi xa hơn vào những năm đầu của thế kỷ 20. Suy nghĩ của ông đã được viết ngay trên trang nhất của bản dịch Kim Vân Kiều, rằng tương lai của Việt Nam tùy thuộc vào việc sử dụng chữ Quốc ngữ !
Con đường làm báo của ông sẽ chứng minh cho lý tưởng này. Năm 1907, ông liên kết với chủ nhiệm của tờ Đăng cổ Tùng báo là F.H.Schneider để quảng bá rộng rãi các bản dịch từ Pháp ngữ sang Quốc ngữ cùng những bài tiểu luận của ông về công cuộc canh tân đất nước. Ông Vĩnh cũng tiếp tục cộng tác với Schneider vào những năm 1908-1909-1910 để làm hai tờ báo tiếng Pháp là Notre Journal và Notre Revue, cho dù hai tờ báo này đã chết yểu. Năm 1910, ông còn cùng với Schneider làm cho tờ Lục Tỉnh Tân văn, là một tờ báo nổi tiếng ở phía Nam. Họ đã cùng nhau trở ra ngoài Bắc để kiếm tìm những kinh nghiệm mới.
Được sự hỗ trợ của chính quyền thuộc địa, họ đã thành lập tờ Đông Dương Tạp chí nổi tiếng (1913-1916). Tờ báo này đối diện với hai mục tiêu. Một là đương đầu với phong trào chống chủ nghĩa thực dân do Phan Bội Châu cùng một số nhà cách mạng yêu nước khác lãnh đạo, mặt khác, tờ báo cổ vũ cho tinh thần hợp tác Pháp-Nam để phát triển văn hóa-xã hội. Chính quyền Thực dân kiểm soát dữ dội và nghiệt ngã tất cả những tờ báo ra đời sớm đó.
Giai đoạn chiến tranh Thế giới lần thứ Nhất, Nguyễn Văn Vĩnh cùng Schneider điều hành tờ báo Trung Bắc Tân văn (1917-1942), đây cũng là tờ báo chữ Quốc ngữ ra hàng ngày đầu tiên ở Việt Nam. Ông còn hậu thuẫn cho nhóm của Trần Trọng Kim để làm tờ báo Namhọc Niên khóa, sau đổi thành Học báo(1919). Đây là tập san giáo dục chuyên đề dành cho học sinh.
Khởi đầu, Nguyễn Văn Vĩnh mong muốn sẽ được tiếp cận với một tầng lớp người đọc mà ngày càng đông lên, nhằm truyền bá những tư tưởng của mình. Người ta đã tính được, vào năm 1917, có 75.000 học sinh, đến năm 1921, có số này khoảng 150.000 (34). Vào năm 1931, Nguyễn Văn Vĩnh dự tính ở xứ Bắc kỳ, lượng người là công luận sẽ có 10.000 người (35).
Ở tờ báo Đông Dương Tạp chí, Nguyễn Văn Vĩnh đã viết hàng trăm bài có nội dung về vệ sinh, y tế, thể thao, văn học, thời sự…Chúng ta chưa làm được thống kê tất cả những bài viết của ông đã được đăng trênĐông Dương Tạp chí và Trung Bắc Tân văn. Nhưng khi đọc kỹ trên tờ báo L’Annam Nouveau-chủ trương xây dựng một nước Nam mới – rồi đánh giá, mới thấy một trong những khía cạnh hấp dẫn nhất của con người ông nằm ở số lượng lớn đến kinh ngạc, đặc biệt là ở chất lượng nội dung của các bài viết đó.
Tất nhiên, cũng giống như nhiều bạn đồng nghiệp của ông tán thành việc cải lương, ông đã viết rất nhiều bài về đề tài cải cách giáo dục và chính trị, cũng như sự cần thiết phải phát triển thương mại và xây dựng một xã hội dân sự cho Việt Nam. Nhưng Nguyễn Văn Vĩnh còn quan tâm đến các vấn đề xã hội, điều này đã cho phép ông thực hiện một số công trình mê hồn về nghệ thuật dân gian, về chiêm tinh học, về các trò may rủi trong cờ bạc, về ẩm thực, về luật pháp, cả về giấy khai sinh, về quốc tịch và về vấn đề thầu khoán. Tóm lại, là về chủ trương “văn minh hóa phong tục” của nước Việt Nam(36).
Nguyễn Văn Vĩnh cũng không hề giấu diếm: Đông Dương Tạp chí ra đời để ngăn chặn các nhà cách mạng Việt Nam khác cũng đang dựa vào việc in ấn, bí mật truyền bá những tư tưởng của họ thông qua việc in truyền đơn và báo chí.
Thật sai lầm khi nghĩ rằng, Nguyễn Văn Vĩnh là người chỉ chú trọng đến tầng lớp thượng lưu bằng cách dẫn lời của Molière trong các bài viết của mình. Chúng ta ít biết về những mối quan tâm của ông đối với các vấn đề liên quan đến cuộc sống hàng ngày của đồng bào mình, những nhóm người ở dưới đáy xã hội, và trên hết, là cuộc sống ở nông thôn cùng những khổ đau của những người nông dân, mà ông cho rằng chính là hệ quả của sự hà lạm của đám quan lại.
Mối quan tâm sâu sắc của ông với “vấn đề nông thôn”, hẳn phải xuất phát từ nguồn gốc nghèo khổ ở làng quê của ông và những năm tháng sống ở nông thôn khi còn là viên chức thuộc địa. Mối quan tâm này của ông càng được tích lũy thêm khi ông dịch hàng loạt các tiểu thuyết mô tả nỗi cùng cực của những người nông dân Pháp từ thế kỷ XVII, mô tả cái hà khắc của chính thể quân chủ mà người dân là nạn nhân. Dù thế nào đi nữa, bất kể phán xét cuối cùng nào về Nguyễn Văn Vĩnh, đều phải tính đến các công trình nghiên cứu của ông về nông thôn Việt nam, về các vấn đề của nó, về xu hướng cải cách và tâm lý nông dân(37). Đúng như ông đã viết trong một bài báo xuất sắc từ năm 1934 như sau:
“Nếu tôi cứ lo toan giải quyết mọi vấn đề liên quan đến làng xã trên một tờ báo chỉ dành cho người thành thị, thì chính vì làng xã là chìa khóa của sự tiến bộ ở một đất nước mà sống chủ yếu là nhờ vào nghề nông như chúng ta”(38).
Rất ít trí thức Việt Nam như ông, được giáo dục theo kiểu phương Tây, có nguồn gốc xã hội như ông, mà lại hiểu được thực tế như Nguyễn Văn Vĩnh trước các vấn đề về người nông dân. Giới quan lại được đặc biệt bị công kích dữ dội trong các bài báo của ông Vĩnh; ông thấy họ bóc lột nông dân mà không bị ai lên án và được người Pháp khoan hòa, che chắn(39). Nguyễn Văn Vĩnh lên án thực tế đó bằng một ngòi bút thép, đặc biệt trên tờ báo L’Annam Nouveau(40) (Nước Nam Mới).
Cụ thể, về chính trị, ông khích người Pháp phải cứng rắn đối với tầng lớp đó, đồng thời đánh thức lương tri của những người Việt Nam khi đọc được bằng tiếng Pháp, bởi đó là những thành phần tinh hoa nhất có thể can dự, cứu giúp người nông dân. Ông Vĩnh đã chuyên tâm tìm kiếm các giải pháp hiện đại cho những bài toán mà chính tổ tiên của ông để lại. Ông tham khảo ý kiến của những nhà chuyên môn như Pierre Gourou, để có những lối thoát hòng giảm bớt sự nghèo khổ của người nông dân(41). Ông viết những tiểu luận về các phương pháp áp dụng khoa học Tây phương, về những tính khéo léo, tài trí của người Việt trong việc tìm nước sạch cho dân làng(42).
Một trong những ước nguyện lớn nhất của ông về mặt xã hội, là phải phát triển công nghiệp địa phương, như việc trồng thuốc lá và dệt lụa tơ tằm. Ông cũng xúc tiến chương trình phát triển những hiệp hội cho vay và trả thuế, nhằm giúp đỡ như một sự tài trợ cho các kế hoạch phát triển nông thôn, cũng như công tác điện khí hóa và cấp nước sạch cho những vùng xa các thành phố[20]. Không thể nghiên cứu và nêu chi tiết các vấn đề đó ở trong bài viết này.
Tuy nhiên điều cần nhấn mạnh, là trong suốt cuộc đời, ông đã sử dụng báo chí hiện đại làm phương tiện nhằm cảnh báo công luận về những bất công ở thôn quê và sự cổ hủ của một số thiết chế ở Việt Nam. Tất nhiên ông không đơn độc trong suy nghĩ và hành động như vậy; nhưng cần phải tính đến những đóng góp của ông trong việc giải quyết những tệ nạn của thời đại. Võ Nguyên Giáp và Trường Chinh không phải là những người duy nhất đã quan tâm đến “vấn đề dân cày”.
Báo chí dưới con mắt của Nguyễn Văn Vĩnh là quan trọng còn vì một lý do khác. Việc viết bằng chữ Quốc ngữ là không đủ. Ông muốn như Phạm Quỳnh, ông muốn sử dụng một ngôn ngữ đổi mới để có thể diễn đạt một cách thích hợp những khái niệm khoa học, kinh tế, văn chương và văn hóa một cách chính xác, mà trước đó chưa hề có. Hiển nhiên Nhà nước Thuộc địa đã ủng hộ ông trong việc này, với suy nghĩ rằng, về phần họ sẽ làm cho hoạt động tuyên truyền văn hóa Pháp thâm nhập rộng hơn trong quần chúng dân An Nam, điều mà họ đã từng khó khăn trong việc thực hiện. Một lần nữa, đây là một lĩnh vực rộng lớn, xứng đáng dành cho một tiểu luận khác.
Chúng ta hãy bằng lòng để nói rằng, ông Vĩnh viết rất nhiều cả bằng tiếng Việt và cả bằng tiếng Pháp về sự cần thiết phải thống nhất và hệ thông hóa chính tả, cũng như ngữ pháp tiếng Việt để gia tăng tính hiệu quả và nâng cao tính công dụng của nó. Ông đã xúc tiến và cổ vũ cho việc chuẩn hóa tiếng Việt trong các nhà trường để việc tiếp thu được dễ dàng hơn(44). Ông muốn tìm được nguồn gốc xuất xứ rõ ràng và chính xác đối với tất cả các từ vựng, đặc biệt là có xuất xứ vay mượn từ tiếng Hán. Ông viêt thận trọng về ngữ âm, về phiên âm, về sự cải biên và khi dịch tiếng Pháp cũng như tiếng Hán ra tiếng Việt.
Ông đã công bố cả bản dịch đi dịch lại từng bước một của tác phẩm Kim Vân Kiều. Giải thích cho cả người Việt cũng như người Pháp trong một hội nghị bàn về tính phức tạp của công trình cũng như tầm quan trọng của tác phẩm đó. Những suy nghĩ rất hấp dẫn của ông về chữ Quốc ngữ, về chức năng của ngôn ngữ học được đăng tải trên tờ L’Annam Nouveau, khiến cho tờ báo trở thành một thứ phương tiện hàn lâm Việt Nam để suy nghĩ về sự tiến hóa của ngôn ngữ dân tộc.
Qua con đường vòng của tờ báo tiếng Pháp L’Annam Nouveau, ông cố gắng lồng ý đồ phổ biến chữ Quốc ngữ không phải chỉ cho người Việt, mà ở đây là cả người Pháp. Ông là người biện hộ rất sớm việc học tiếng Việt của người Pháp; Theo Nguyễn Văn Vĩnh, hoạt động giáo dục giữa các dân tộc cần phải được tiến hành bằng cả hai chiều, và đặt lên hàng đầu trong kế hoạch tạo sự hòa nhập giữa người Việt và người Pháp, bất chấp cái hố sâu ngăn cách của chủng tộc và thuộc địa, điều mà ông đã ý thức được trong thực tế(45).
Nguyễn Văn Vĩnh và vấn đề “văn minh” dưới thời bị đô hộ.
Phần lớn những người biết về Nguyễn văn Vĩnh đều thích thú, cười mỉa một cách chế nhạo mục bài nổi tiếng của ông có nhan đề là Lên án tất cả
(Se moquer de tout), trong đó ông hệ thống lại toàn bộ sự phê phán của mình đối với những cái mà theo ông, đó là những thói hư tật xấu của xã hội Việt Nam, những tập quán liên quan đến việc sinh đẻ, tục ăn trầu, sự tham nhũng, thói mê tín dị đoan…
Từ năm 1913 đến 1915, ông đã viết hàng chục bài báo và tiểu luận về sự cần thiết phải tiến hóa toàn diện xã hội Việt Nam, và làm cho nó “Tây” hơn, “văn minh” hơn.
Bị thôi thúc trước những quan điểm chính trị-xã hội của học thuyết Đác-uyn (Darwin), Nguyễn Văn Vĩnh coi sự phục hưng, đổi mới của Việt Nam phải được thực hiện bằng việc thích nghi một cách thận trọng với sự hiện đại hóa kiểu phương Tây, qua con đường thuộc địa Pháp. Hơn tất cả mọi điều khác, ông muốn tạo ra một nước Việt Nam thực sự “hiện đại”, phát triển như châu Âu. Điều ông quan tâm trên hết, là ghi tên nước Việt Nam vào bản đồ của các quốc gia “văn minh”.
Nguyễn Văn Vĩnh tin rằng, từ sự va chạm mãnh liệt với một phương Tây thực dân, đất nước ông sẽ biết cách tìm ra được nghị lực và sự phân biệt đủ thuyết phục, để rũ bỏ những cái mà theo ông là vấn nạn xã hội, những thói tục và những tập quán của nó, vốn thuộc một thời đại khác để lại. Cách tiếp cận rất phương Tây của ông, đã đặt lên hàng đầu tư tưởng rằng: nước Việt Nam có thể, một khi cải cách, sẽ đạt được một cấp độ văn hóa ngang với cấp độ của nước đô hộ.
Cần nhấn mạnh rằng, chúng ta có thể tìm thấy những suy nghĩ tương tự về việc Âu hóa và văn minh hóa ở Nhật Bản, Thái Lan (Xiêm) và Trung Quốc. Vấn đề không phải chỉ là một tiến trình “Pháp-Việt”(46). Thực tế chính là trong bối cảnh rộng mở hơn ấy của sự văn minh mà, theo tôi, chúng ta cần phải phân tích sự công kích của Nguyễn Văn Vĩnh vì sao phải “chống lại” xã hội và văn hóa truyền thống(47).
Xin lấy ví dụ, chuyện y phục được coi như là tiêu chí quan trọng của mức độ văn minh. Trong một tiểu luận có nhan đề là “Chuyện ăn mặc”, ngay ở đầu bài viết, ông Vĩnh đã trình bày suy nghĩ như thế nào trước sự thay đổi này, tuy chỉ là bề ngoài, nhưng lại là cái chìa khóa để xác lập sự ngang hàng với phương Tây và các nước đang trong tiến trình “văn minh hóa theo kiểu Tây phương”.
“Giống như người Thổ Nhĩ Kỳ, người Xiêm đã chấp nhận y phục Âu châu, chỉ trừ một chi tiết. Người Thổ giữ lại chiếc mũ đấu ( gọi là fez, loại mũ ở Thổ Nhĩ Kỳ và một số nước Hồi giáo-ND). Người Xiêm giữ lại cái sampot (khố-ND). Cả hai nước đều đã bỏ những vết tích cuối cùng này trong trang phục truyền thống của họ. Bằng cách này, họ muốn xác định rằng, đất nước họ đã thực sự Âu hóa. Và từ nay,thông qua vẻ bề ngoài, họ muốn mọi người nhìn họ giống như tất cả các dân tộc văn minh khác ở châu Âu (…).
Ỏ châu Á, người Nhật Bản đã chấp nhận y phục Âu châu sau khi được tổ chức theo kiểu châu Âu. Người Trung Hoa cũng đã làm như vậy, rồi tiếp nữa là người Xiêm. Thực hiện việc này, mọi người đã tuân theo một giá trị ảnh hưởng huyền bí của những biểu hiện bên ngoài tác động đến sự thay đổi bên trong.
Với các dân tộc lạc hậu, để đạt đến nền văn minh Âu châu, ít ra là cách tổ chức kiểu châu Âu, thì dường như việc chấp nhận các cung cách bên ngoài là một điều cần thiết để khẳng định ý chí bình đẳng với châu Âu trong con mắt của thế giới và trong chính con mắt mình”(48).
Quan sát ở Việt Nam, Nguyễn Văn Vĩnh lấy làm tiếc là nó chỉ được chấp nhận một cách chậm chạp cách ăn mặc kiểu quần áo phương Tây. Ông lưu ý rằng, một vài những chuẩn mực Tây hóa nào đó đã sảy ra rõ rệt nhất về trang phục chỉ có ở những công chức cạo giấy, đặc biệt ở giới nhà binh.
Nhưng cách phục sức hẳn phải đi đôi với một lối suy nghĩ nào đó. Ông đã chế giễu những ai ăn mặc giống người phương Tây, nhưng lại không thực sự hiểu được bản chất của việc làm ấy. Mặc dù đã có sự phổ biến về các tiêu chí mới trong cách ứng xử, Nguyễn Văn Vĩnh vẫn thất vọng bởi lối sống cơ hội trong việc bắt chước một cách máy móc của một số người Việt Nam. Họ muốn được người Pháp để mắt tới và thừa nhận hơn là để thể hiện sự hiện đại hóa về tư tưởng phải đi đôi với tác phong trong trang phục của họ.
Chắc chắn, Nguyễn Văn Vĩnh, như nhiều người ở châu Á, châu Âu, hoặc các nơi khác, đã dựa trên một quan niệm phương Tây về phép “lịch sự” và cách “ứng xử”(49). Như những người công chức Việt Nam mặc trang phục phương Tây hôm nay (cũng là sự khuyến khích cho các bộ tộc vùng núi hãy cứ mặc những bộ đồ sặc sỡ)(50), ông Vĩnh rất lấy làm tiếc vì có nhiều người nước ngoài nhìn những người Việt Nam mặc đồ truyền thống, nhưng lại quan sát họ như thể họ là những hiện vật thuộc quá khứ trong các bảo tàng, bên cạnh đó lại khiến họ thích thú.
Giống như Phan Châu Trinh, Nguyễn Văn Vĩnh đã đả kích những gì theo ông là “nghi thức phong kiến”, đặc biệt là việc quỳ lạy(51) của giới quan lại và vua tôi của họ. Đối với ông, nước Việt Nam nên theo gương Thái Lan, Thổ Nhĩ Kỳ và Trung Hoa. Phương Tây hóa là điều không tránh được, và Nguyễn Văn Vĩnh đã tin chắc, mình là người biết đàm phán thế nào với người Pháp.
“Vậy là có những lý do xác đáng trong sự thay đổi đã được người Thổ Nhĩ Kỳ, người Ai Cập, người Nhật, người Xiêm quyết định đối với các vấn đề liên quan trong việc áp dụng một cách tổng thể cách thức sử dụng y phục truyền thống của họ. Đây cũng là một bước hướng tới sự thống nhất của con người trong các biểu hiện liên quan đến đời sống cộng đồng của nó, điều đã làm cho một vài nhân vật tài tử nghiệp dư thích đi tìm cái kỳ lạ và sắc thái bản địa phải thất vọng”.
Đương nhiên, với con mắt của những ai thích thú, để tâm tới thời kỳ “tiền thuộc địa”, hay với sự đa dạng của truyền thống, của văn hóa hay lịch sử Việt Nam, thì việc nêu những quy tắc trong ăn mặc, phong cách và tư tưởng theo xu hướng Âu hóa của Nguyễn Văn Vĩnh trở thành lạ lùng, hời hợt và cả sự khó chịu.
Tuy nhiên, chúng ta cần nghĩ đến việc đánh giá đúng và nghiêm túc về Nguyễn Văn Vĩnh, bởi lẽ, ông không phải là người duy nhất có cách suy nghĩ và hành xử này. Một lần nữa, ta thấy Nguyễn Văn Vĩnh thuộc lớp người dám dấn thân vào trào lưu khuyến khích cải cách văn hóa vượt khỏi giới hạn một nước “Việt Nam” hay của một “Đông Dương thuộc Pháp”.
Nước Nhật Bản vào kỷ nguyên Minh Trị đã cho những tấm gương tương tự về cách đặt vấn đề và việc thích nghi trong văn hóa, phục trang và những khái niệm Tây phương trước quan niệm về văn minh của những dân tộc chịu ảnh hưởng của đạo Khổng và Thần đạo. Chương trình “Tân sinh” ở nước Trung Hoa Dân quốc cũng nằm trong tinh thần ấy.
Tại Đông Nam Á, ta có thể xem xét đến “Sắc lệnh về văn hóa” do Phibul Songkram thông qua vào cuối những năm 1930, đã bắt buộc người Thái Lan phải mặc trang phục kiểu phương Tây, phải bắt tay khi chào hỏi thân mật (sawatdii), hay ôm hôn vợ trước khi ra khỏi nhà đi làm như những biểu hiện của “văn minh” (siwilai). Thực vậy, khá nhiều đổi thay về văn học, nghệ thuật, cách ứng xử có tính tâm lý học diễn ra ở Việt Nam cũng đã từng sảy ra ở Thái Lan một cách cuốn hút(53).
Vấn đề Âu hóa ở một đất nước không nhất thiết phải có sự can thiệp, cưỡng bức trực tiếp qua một công cuộc khai thác thuộc địa theo kiểu châu Âu(54), cho dù có một sự kiện nổi bật nữa là Nhật Bản thời Minh Trị cũng đã ứng xử ở Triều Tiên y hệt như các thế lực thực dân châu Âu cùng với một cách tư duy tương tự(55). Vậy là, thời kỳ thuộc địa Pháp ở Việt Nam cũng nằm trong một tiến trình lịch sử và địa lý của quá trình canh tân tổng quát và rộng lớn hơn.
Nguyễn Văn Vĩnh muốn chỉ ra cho người Pháp thấy rằng, người Việt Nam cũng có thể văn minh. Ước nguyện của ông khi đưa vở kịchNgười bệnh tưởng của Molière lên sân khấu với các vai diễn là người Việt Nam vào đầu những năm 1920, căn bản là bị ý chí thúc đẩy, ông muốn chứng minh cho người Pháp thấy rằng, người Việt Nam hoàn toàn có khả năng hiểu, nhận thức và diễn đạt một tác phẩm văn học phức tạp của nền văn hóa phương Tây. Như một báo cáo của cảnh sát Pháp cho thấy: bản dịch tiếng Việt tác phẩm của Molière có chủ ý
“chứng minh cho các kiều dân Pháp đang cư trú ở Việt Nam thấy rằng, người dân ở đất nước này cũng có khả năng hiểu được sâu sắc và cũng biết thưởng thức các tác phẩm của Molière và những nhà văn nổi tiếng khác”(57).
Ông cũng mang ý tưởng đó khi giới thiệu lên màn ảnh tác phẩm điện ảnh Kim Vân Kiều. Ông đã viết bài trên tờ Trung Bắc Tân văn, bộ phim này để chỉ cho người Pháp và cho thế giới biết rằng “người Việt Nam không phải là một giống mọi rợ”. Bộ phim nhằm giúp người Việt Nam “làm cho thế giới biết”, rằng họ cũng là “một phần của nhân loại” và không hề là một dân tộc dòng giống mọi rợ, nguyên thủy. Một cách thú vị, ông còn viết thêm rằng, bộ phim này là một trong những phương pháp mới nhất, nhanh nhất, hiệu quả nhất làm cho người ta nghe thấy thông điệp của người Việt Nam(58). Quả thực, ông đã không hề nhầm lẫn điều này.
Nói tóm lại, vấn đề văn minh và so sánh các nền văn minh là trung tâm của cuộc sống và các công trình nghiên cứu của Nguyễn Văn Vĩnh. Ước muốn ứng xử theo phong cách Âu Tây, mặc đồ Âu, đội chiếc mũ kiểu thuộc địa, nói tiếng Pháp với ngay cả bạn bè người Việt, có lẽ không thể chỉ vì bề ngoài, hay một ý nguyện tượng trưng còn cao hơn một sự dàn cảnh đơn giản với biểu tượng của một người Pháp ( hãy so sánh với một số người phương Tây lạ lùng là muốn “bản xứ hóa” hơn cả người bản địa, nhằm thoát khỏi nền văn minh phương Tây mà chính họ sinh ra từ đó).
Như ông đã từng nhấn mạnh trong nhiều tiểu luận bàn về vấn đề văn hóa xã hội, điều đó tương ứng phần nào ý muốn đưa người Việt Nam lên ngang hàng với thế giới Tây phương, và lên trên những dân tộc khác bị coi là “mọi rợ”(59).
Điều nên lưu ý là có không ít người Việt Nam – Không phải chỉ có Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Quỳnh – Xem xét, đánh giá các khái niệm, nhận thức mới về “văn minh phương Tây”, đối chiếu với những thiên kiến cũ của người Việt, về tính ưu việt giả định họ đã có, so sánh với các nước láng giềng theo Phật giáo tiểu thừa ở phía Tây.
Nếu người Pháp biện minh việc cai trị Việt Nam của họ bằng một sự vượt trội về văn minh và cao hơn phương Tây hiện đại, thì Nguyễn Văn Vĩnh và một số người khác sẽ biện minh cho việc áp đặt Tây Đông Dương của mình cũng bằng cách thức tương tự không thua kém. Đối với Nguyễn Văn Vĩnh và một số người khác, nhờ tính ưu việt vượt trội của mình, nước Việt Nam đã giữ vị trí ưu tiên trong sứ mệnh khai hóa văn minh Pháp-Việt ở Đông Dương thuộc địa(60).
Khi đáp lại phe đối lập trong số các trí thức Campuchia về sự gia tăng nhập cư của người Việt sang Campuchia thuộc địa, tờ báo L’Annam Nouveau đã trả lời rằng, người Việt đã tới Camphuchia vì cùng những lý do phù hợp với học thuyết Đác Uyn, giống như người châu Âu đã tới châu Á, và cũng như người Nhật đến Mãn Châu.
“Ít ra là người Campuchia cũng không muốn bị tách biệt như những bộ tộc hoang dã ở Trung Phi, họ cần thiết và thực sự quan tâm đến việc mở rộng vòng tay đón nhận mọi sứ giả của nền văn minh. Hình như, lúc này không phải là ý tưởng của một số người trong bọn họ”(61).
Tư tưởng phức tạp về văn minh này, vậy mà lại trùng nhau ở nhiều điểm khi đối chiếu sau này. Cái cách thức theo giọng điệu của một thuộc địa Pháp mang mầu sắc khai hóa lại trùng với giọng điệu của Việt Nam xưa hơn ở Đông Dương, tạo thành một trong những sự phân nhánh lý giải lý thú nhất. Một cách nói khác, tất nhiên là theo ý tưởng Cộng sản ở một nước Việt Nam trẻ đã truyền bá nhằm nhấn mạnh sứ mạng làm cách mạng ở Lào và Campuchia sau này(62).
Tất cả những chính kiến chung quanh vấn đề ảnh hưởng của phương Tây có thể xem như phi lý vào thời đại của những “giá trị Á Đông” và của “sự va chạm giữa các nền văn minh”. Nhưng chúng tôi cho rằng, điều quan trọng, đây là mối bận tâm chủ yếu của những con người sống trong thời kỳ này, và là một tiến trình phức tạp cần được nghiên cứu nhiều hơn và vượt ra cả những khuôn khổ quốc gia đơn thuần của nước Pháp, của Đông Dương, thậm chí của cộng đồng Pháp ngữ. Trở thành văn minh, cũng có nghĩa là có thể khai hóa cho người khác. Nguyễn Văn Vĩnh biết rất rõ điều này!
Điều kỳ lạ ở chỗ, cuộc va chạm đáng buồn giữa người Việt Nam và người Khơ me lúc đó, đã làm suy giảm đi những thuyết lý khai hóa của người Việt ở một Đông Dương thuộc địa, thì mối giao hảo Pháp-Nam cũng phải hứng chịu những rắc rối mang tính phá hoại như thế. Bởi lẽ, nếu Nguyễn Văn Vĩnh coi văn minh Việt Nam cao hơn văn minh của người Khơ me, thì ông đã bị thất vọng sâu sắc trước một sự khinh miệt cố hữu nào đó của bản thân chế độ thuộc địa (nếu không muốn nói là tiến trình của sự văn minh?!). Sự việc điển hình đó xuất hiện vào năm 1933, trong một vụ va chạm nảy lửa giữa người Pháp và người Việt sảy ra tại rạp chiếu bóng Majestic Hà Nội (rạp Tháng 8 hiện nay).
Nguyễn Văn Vĩnh đã phê phán sự hiểu lầm khó chịu này, nó thực sự đối lập giữa kẻ cai trị là thực dân và kẻ bị trị. Ông đã yêu cầu phải thông báo rõ ràng sự việc và yêu cầu người Pháp bỏ ngay cái thái độ trịch thượng kiểu thực dân, mà đó là nguyên nhân của vụ việc ồn ào này(64).
Nhưng điều đã khiến Nguyễn Văn Vĩnh bị xúc phạm là sau khi ông cho đăng bài báo, ông đã nhận được lời cảnh cáo chính thức của nhà cầm quyền (Chính phủ thuộc địa-ND) và trong nội dung của bài viết đã liệt ông vào loại người “chống Pháp” (khác gì việc buộc tội người Lào và người Campuchia “chống Việt Nam”)(65). Nguyễn Văn Vĩnh đã không thể đồng ý với cách phân tích như vậy:
“Thật tình, họ dùng tính từ này thật quá dễ dãi, thậm chí là ranh ma. Liệu có ai đưa ra được cho chúng ta một cách định nghĩa thế nào là chống Pháp?!”.
Ông kết thúc bài viết về sự kiện này bằng những lời:
“Ngày mà tất cả những người Pháp ở đây đều thừa nhận rằng, sự độc ác phải bị trừng trị, dù nó đến từ phía nào, xuất phát từ đâu, ngay cả từ một người Pháp; rằng người An Nam cũng là con người, rằng họ cũng phải hành động tự thân chống lại mọi sự xúc phạm, bất công, và khi hành xử như thế, họ sẽ có ở bên mình tất cả những người Pháp lương thiện, thì ngày đó, mối giao hảo Pháp-Nam không còn là một cách nói xuông”(66).
Dù có liên quan đến người Pháp hay người Campuchia, Nguyễn Văn Vĩnh đã chứng minh cho chúng ta một góc nhìn thật thú vị về cách thức của trí thức Việt Nam ứng xử trước các vấn đề đặt ra của vô số những giao điểm đa dạng của các nền văn minh khác nhau trong hoàn cảnh của quá trình khai thác thuộc địa.
Tuy nhiên, Nguyễn Văn Vĩnh đã tin tưởng sâu sắc vào tiến trình hiện đại hóa của đất nước này chỉ có thể thực hiện thông qua sự liên minh với nước Pháp, điều này lại phù hợp với quan điểm chính thức. Sự trùng hợp tư tưởng đó, đã tạo thuận lợi cho người Pháp tìm cách để liên kết những người Việt Nam như ông vào với dự án thuộc địa của Pháp ở Đông Dương. Hơn thế nữa, người Pháp cũng chẳng phải là những kẻ duy nhất muốn lấy được lòng tin của người Việt Nam.
Nguyễn Văn Vĩnh và “Pháp ngữ” thuộc địa
Không phải chỉ có nền văn minh Pháp dưới thời thuộc địa, và những nhà cai trị thuộc địa Pháp thời đó mới hiểu một cách tường tận về sự phát triển văn hóa và văn mình Pháp và vai trò của Nguyễn Văn Vĩnh đều xuất phát từ mối lo của người Pháp, rằng văn hóa và tư tưởng của họ không thấm đến được người dân và tầng lớp quan lại Việt Nam. Những nền văn hóa khác, đặc biệt là của Trung Hoa, vẫn có một ảnh hưởng mạnh hơn và đã bắt rễ sâu hơn cả về thời gian và không gian.
Việc Âu hóa thuộc địa có những giới hạn của nó, như Denys Lombard đã nhấn mạnh một cách chính xác, ngay cả ở Đông Dương thuộc Pháp[21]. Sự chọn lựa của chính quyền thuộc địa trong việc đặt cược vào Nguyễn Văn Vĩnh là bằng chứng rõ rệt.
Nhà chức trách thuộc địa, đặc biệt là toàn quyền Albert Sarraut (1911-1913, 1917-1919) và giám đốc chính trị của ông ta, Louis Marty, đều quyết tâm ngăn chặn sự tuyên truyền của Đức và ảnh hưởng của Trung Quốc đến với tầng lớp ưu tú Việt Nam bằng những bản dịch chữ Hán, dựa vào hệ thống sách báo Trung Hoa vẫn nối liền Việt Nam với bên ngoài – dù đã có nền đô hộ thuộc địa.
Sarraut trình bày với bộ trưởng Thuộc địa sự thiếu hiểu biết của người Á Đông nói chung và người Việt Nam nói riêng về nước Pháp.
“Tiếng Anh, ông nói, là thứ tiếng duy nhất trong các ngôn ngữ châu Âu được sử dụng phổ biến ở Viễn Đông, các nhà xuất bản sách Trung Quốc ở Thượng Hải và các hải cảng khác đã tìm thấy trong đồng bào họ những người biên dịch giỏi để dịch thứ tiếng đó”.
Nói rộng ra, ngay cả những bản dịch Trung Hoa đang tiếp tục thâm nhập vào Việt Nam vẫn không làm cho người ta biết đến nước Pháp bằng các nước châu Âu khác. Sarraut lấy làm tiếc rằng phần lớn kiến thức của người Việt về thế giới và châu Âu đều đến từ những xuất bản phẩm không phải của người Pháp, như những bản tường thuật nhiều tập mà Khang Hữu Vi đã viết sau chuyến đi châu Âu.
Để bảo vệ những lập luận của mình, Sarraut đã dẫn chứng bản báo cáo của Viện Viễn Đông Bác cổ Pháp do Noel Péri viết năm 1911 về những bài thi của các quan, cho thấy người Pháp không phải là “người nắm công luận”. Péri và những người khác cho biết rằng các sách vở Trung Hoa vẫn tiếp tục chiếm phần lớn trong các tủ sách ở địa phương của các quan. Nghiêm trọng hơn:
“Công trình của Khang Hữu Vi vẫn tiếp tục được sử dụng và lưu hành tại thuộc địa, mặc dù đã có lệnh ngăn cấm mọi sách báo Trung Hoa, thuộc bất cứ loại nào”[22].
Chính trong bối cảnh đó mà Sarraut dựa vào một nhóm nhà nghiên cứu Việt Nam tài năng, đã chiêu tập những người trí thức biết tiếng Pháp như Phạm Quỳnh, Bùi Quang Chiêu, Nguyễn Văn Vĩnh và những người khác, và đưa họ đứng đầu những tờ báo nhằm xúc tiến sự nghiệp của Pháp ở Đông Dương – cụ thể là Nam Phong, La Tribune Indigène (Diễn đàn bản xứ) và Đông Dương tạp chí, cùng với Trung Bắc tân văn.
Sarraut chủ yếu dựa vào Louis Marty và Schneider để lập nên một “chương trình có hệ thống” nhằm cắt đứt Việt Nam khỏi bối cảnh châu Á và ngăn chặn những kẻ cạnh tranh không phải nước Pháp trong các kế hoạch “của Pháp” ở Đông Dương.
Họ chọn lọc những trí thức và nhà báo Việt Nam biết tiếng Pháp và chữ quốc ngữ để phụ trách các tờ báo, dịch thuật và nắm các câu lạc bộ văn học để làm cho người Việt Nam biết đến nước Pháp và nền văn minh Pháp, và chủ yếu là qua tiếng Việt.
Ngay cả sau chiến tranh, tầm quan trọng làm cho châu Á và Việt Nam biết đến nước Pháp vẫn là điều ưu tiên ở thuộc địa. Louis Marty nhắc lại cho Sarraut hồi tháng 3-1919 rằng:
“Trong sách báo Trung Quốc hiện đại, các công trình mô phỏng hay biên dịch các tác phẩm Pháp sau thế kỷ 18 là cực kỳ hiếm. Ngược lại, Viễn Đông đầy dẫy những sách thuộc đủ loại chủ đề dịch từ tiếng Anh hay từ tiếng “Đức”.
Marty tán thành quyết định của Sarraut, “thành lập và phát triển những cơ quan tuyên truyền của Pháp viết bằng tiếng dân tộc của người An Nam với sự trợ giúp của ông Schneider, và nhanh chóng chinh phục thiện cảm của công chúng. Những cơ quan đó ngày nay đang đảm bảo cuộc đối thoại, trong khi bổ khuyết cho việc tổ chức cơ quan tuyên truyền của chúng ta”.
Đối với Marty thì các cơ quan tuyên truyền đó vận hành “bề ngoài có vẻ là độc lập, nhưng chịu sự kiểm soát rất chặt chẽ của Chính phủ Thuộc địa và nhà chức trách địa phương”. Ông nói cần phải “thông tin và dạy dỗ”. Nói tóm lại, trước hết phải làm cho người ta biết nước Pháp, tầm quan trọng của nó trong thế giới, tính hiện đại và văn hóa đối với người Việt Nam và bằng ngôn ngữ của họ.
“Những thần dân được bảo hộ của chúng ta cần thiết phải có bên mình một tờ thông tin, thông báo cho họ biết chính xác kèm theo lời bình luận giải thích về tình hình chung của đất nước cũng như về các sự kiện bên ngoài, có thể thỏa mãn sự tò mò hợp pháp của họ nhưng tránh xa mọi xu hướng độc hại; Chính phủ cũng cần có khả năng chuẩn bị thông qua một sự quảng cáo thông minh về một số biện pháp hành chính, một số cải cách, để chúng sẽ được tiếp nhận tốt hơn nếu chúng được giải thích tốt hơn và hiểu rõ hơn.
Cơ quan đó […] cần phải có một vai trò chủ yếu là giáo dục; nó phải làm cho người bản xứ tự đánh giá được lợi ích và tầm vóc của những nỗ lực lớn lao đang thực hiện vì họ; nó cũng phải dạy cho họ biết rõ nước Pháp hơn, về những ý tưởng hào hiệp, về sự nghiệp của các nhà tư tưởng và các nhà bác học; nói tóm lại phải góp phần đem lại cho họ một ý thức rõ rệt rằng mối quan tâm của nước bảo hộ không hề mặc cả. Nếu nó được phổ biến đầy đủ, nó sẽ phục vụ cho việc xây dựng dần dần một tinh thần công cộng tích cực […]”[23].
Chính Schneider đã bắt đầu triển khai kế hoạch đó dưới thời Sarraut. Nắm vững tiếng Việt, ông xúc tiến việc tuyên truyền cho nước Pháp bằng quốc ngữ. Chương trình phổ biến đó, vừa văn hóa vừa chính trị, phải thực hiện không phải chỉ bằng tiếng Pháp mà bằng cả tiếng Việt để có thể đến với những người không biết tiếng Pháp. Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh và một số người khác được chọn để xúc tiến việc tuyên truyền cho Pháp có hiệu quả hơn đối với người Việt Nam. Marty thay thế Schneider sau chiến tranh.
Năm 1937, Vayrac, phụ trách kiểm duyệt báo chí ở Bắc Kỳ, đã từng tuyển dụng Nguyễn Văn Vĩnh vào dự án đó và ông Vĩnh đã từng trở thành người bạn gần gũi nhất của Vayrac. Ông đã trình bày cơ sở của việc tuyên truyền cho Pháp và vai trò của Nguyễn Văn Vĩnh trong bản báo cáo nội bộ: Những nỗ lực ở Bắc Kỳ từ khoảng 25 năm nay nhằm cung cấp sách báo tốt cho người An Nam đọc.
Theo lời Vayrac, khá lâu trước khi Thế chiến thứ nhất bùng nổ, Nguyễn Văn Vĩnh đã quan tâm nhiều đến việc dịch các tác phẩm nói lên tư tưởng chính trị của nước Pháp thế kỷ 18 hơn là dịch các hài kịch của Molière và kịch châm biếm của thế kỷ trước. Vayrac không che dấu rằng Nguyễn Văn Vĩnh “đã dịch các nhà triết học Pháp để chuẩn bị cho cuộc Cách mạng. Chúng tôi phải kể đến việc ông đã thực hiện sáu hay bảy bản dịch liên tục của Khế ước Xã hội, được lưu hành ngấm ngầm”.
Vayrac đã cố hết sức để “thuyết phục [ông ta], trong những dịp trò chuyện giữa chúng tôi, rằng đấy không phải là những tác phẩm cần dịch trước tiên, rằng người An Nam, trong tình trạng tiến hóa hiện nay, chưa thể rút ra được điều gì bổ ích”.
Ông nói đã phải “mất hàng năm trời để thuyết phục ông Vĩnh rằng phải bắt đầu bằng những tác phẩm đã được cả thế giới ca tụng và dịch ra đủ các thứ tiếng, như Truyện ngụ ngôn của La Fontaine và Truyện cổ tích Perrault”[24]. Như vậy ta thấy Nguyễn Văn Vĩnh không phải được tùy ý chọn các tác phẩm phương Tây để dịch.
Phe nhóm của Sarraut đang cần đến ông. Vayrac giải thích rằng ông Vĩnh đã thành lập và điều hành nhiều tờ báo bằng Quốc ngữ và chữ Hán, rằng ông đã điều hành trong thời gian ngắn Nhà in Bắc Kỳ (Imprimerie tonkinoise) và quyết tâm ra một tờ báo bằng quốc ngữ mà không cần giấy phép, “để kiếm cớ bị bắt và gây nên một vụ bê bối”.
Chính lúc đó Vayrac đã thuyết phục được ông Vĩnh hãy tiến một bước về phía ông ta và về phía chính phủ thuộc địa đang thừa nhận rằng “ở đây có một sức mạnh cần sử dụng, nhưng trong trật tự và trong sự hợp pháp”.
Sự dàn xếp đó trùng hợp với ý đồ của Sarraut là loại bỏ ảnh hưởng bên ngoài thông qua chữ Quốc ngữ chứ không phải qua tiếng Pháp. Nguyễn Văn Vĩnh là “người của chúng ta” ở Bắc Kỳ. Từ đấy Schneider và ông Vĩnh cùng hợp tác để điều hành tờ Đông Dương tạp chí, rồi tờ Trung Bắc tân văn. Như Vayrac đã nhấn mạnh “Ông Vĩnh cuối cùng đã tìm được con đường đi. Ông sẽ trở thành nhà dịch giả các tác phẩm lớn của văn học Pháp”, mà quên nói thêm rằng việc đó nhằm xúc tiến ảnh hưởng của Pháp chống lại những kẻ cạnh tranh của Á Đông và cả của phương Tây ở châu Á.
Thật vậy, vai trò giao phó cho ông Vĩnh trong việc xúc tiến văn hóa Pháp bằng tiếng Việt trước hết là kết quả mối lo của người Pháp nhìn thấy “dư luận châu Á” bành trướng ở Việt Nam, nhất là khi nó bị những cường quốc phương Tây khác thao túng (như người Đức trong Thế chiến thứ nhất). Phân tích ngược lại thời kỳ 1931, Nguyễn Văn Vĩnh giải thích rằng vai trò của ông là góp phần dựng nên một nền dư luận Việt Nam, vì sự thật là “các báo chí Trung Hoa, tuy không đề cập riêng những vấn đề An Nam, nhưng vẫn tạo nên một luồng dư luận châu Á đối với các nước lớn là những đế quốc ở châu Âu”[25].
Ngay sau Thế chiến thứ nhất, chữ Hán vẫn tiếp tục chiếm một vị trí đáng kể ở Việt Nam. Cho đến cuối những năm 1920 chẳng hạn, người Pháp sử dụng ông Vĩnh để “chống lại sự xâm nhập của tiểu thuyết Trung Hoa” bằng cách cho ông lập các Tủ sách Bắc kỳ (Lectures Tonkinoises). Năm 1927 và 1928, thống sứ René Robin thành lập Almanach Annamite (Niên lịch Thông thư An Nam) và một tủ sách dịchLa Pensée de l’Occident
(Âu Tây Tư tưởng), theo cùng một ý tưởng trên. Robin đặt ông Vĩnh đứng đầu hai tủ sách đó, được Nhà nước thuộc địa tài trợ. Sự cắt đứt dây liên hệ đó với thế giới Trung Hoa tất nhiên không phải tự nó đến.
Cho đến những năm 1930, người Việt Nam vẫn đọc các sách lịch Trung Hoa in ở Quảng Châu hay Thượng Hải, được xuất bản “hàng trăm nghìn và có lẽ đến hàng triệu bản” theo lời ông Vayrac. Một số lớn sách lịch Tàu đó được bán ở Đông Dương chỉ từ 1 hào đến 1,2 hào. Vayrac giải thích rõ rằng “chỉ có chính phủ (mới có thể) tài trợ cho một công việc dưới những điều kiện bi đát như vậy”. Bối cảnh châu Á vốn có của nền văn minh Việt Nam không thể biến mất trong ngày một ngày hai.
Chính phủ Pháp đã mua và phân phát phần lớn các sách lịch của Nguyễn Văn Vĩnh trong cuộc chiến chính trị-văn hóa đó, như vậy tủ sách Âu Tây Tư tưởng đã xuất bản được 1.800.000 bản dịch, trong đó có 1.000.000 bản cho việc phát không với 65.000 bộ[26].
Về nhiều mặt, văn hóa Trung Hoa có nguồn gốc xa xưa hơn và bắt rễ sâu hơn vào văn minh Việt Nam so với văn hóa Pháp, và nó vẫn tiếp tục tồn tại dưới thời thuộc địa. Không thể làm cho “đám đông dân chúng” Việt Nam hiểu được, các nhà cai trị thuộc địa phải tăng cường, nỗ lực để xúc tiến quảng bá nền văn hóa và sự tiến bộ của nước Pháp. Vì vậy mà vào đầu thời kỳ thuộc địa, những hiểu biết về nước Pháp, về ngôn ngữ, và việc phổ biến những tác phẩm của Pháp ở Đông Dương đều phải thực hiện hoặc bằng tiếng Pháp, hoặc bằng tiếng Việt. Chính vì thế mà những bản dịch của Nguyễn Văn Vĩnh nằm trong tổng thể những công cụ đắc lực cho việc tuyên truyền của chính quyền thuộc địa[27].
Vayrac biết rõ mọi vấn đề từ bên trong, bản thân ông cũng thừa nhận, như ông đã nhấn mạnh trong những lời nói đầu bài viết này. Và đấy là lý do khiến ông cảm thấy một nỗi buồn lớn lao khi người bạn Nguyễn Văn Vĩnh của ông qua đời. Thật quá đáng nếu bỏ qua hiệu quả của văn hóa và ngôn ngữ Pháp ở Việt Nam dưới thời thuộc địa, nhất là ở các thành phố với một lớp thanh niên sử dụng tiếng Pháp nhiều hơn trong những năm 1930. Ta cũng có thể sai lầm nếu không nhận ra rằng, văn hóa và ngôn ngữ Pháp ở Đông Dương thuộc địa[28] đã chưa thể chinh phục được ngay số đông độc giả Việt Nam.
Nước Pháp thuộc địa (cũng như Anh và Nhật Bản) rất cần đến Nguyễn Văn Vĩnh để “xóa bỏ sự ngộ nhận hoàn toàn đó” giữa hai dân tộc rất khác nhau, để ngăn chặn những ảnh hưởng cạnh tranh với sự hiện diện của người Pháp, và để cắm sâu nền đô hộ và văn minh Pháp vào mảnh đất xa lạ, với một nền văn minh xuất phát từ châu Á chứ không phải từ phương Tây. Việc hiện đại hóa thuộc địa thật phức tạp; không phải tự nhiên mà thực hiện được. Nguyễn Văn Vĩnh hoàn toàn ý thức rõ điều đó.
Thay lời kết luận
Tuy nhiên, hình như Nguyễn Văn Vĩnh đã đặt mình đâu đó giữa quá khứ và hiện tại, về cuối cuộc đời hình như ông không biết nên chọn con đường nào. Sự việc ông bị phá sản hoàn toàn về tài chính khiến cho công việc của ông không dễ dàng. Nguyễn Văn Vĩnh vẫn còn tin vào hiện đại hóa theo phương Tây và vào sự phát triển song hành của văn minh Việt Nam. Ông đã cho ta ví dụ có ý nghĩa về một con người quan niệm hiện đại hóa Việt Nam trong khung cảnh thuộc địa và minh họa những khó khăn đặt ra trong hoàn cảnh đó.
Khi Tưởng Giới Thạch thi hành một đường lối văn hóa Khổng giáo “truyền thống” vào đầu những năm 1930, bài xích lối ăn mặc theo Tây đang thịnh hành ở thành thị Trung Quốc, Nguyễn Văn Vĩnh trả lời trong một tiểu luận rằng cần thiết phải phục hồi và phát triển một nền nho học mới và hiện đại ở Việt Nam, một thứ ý thức hệ Nhà nước, nhưng phải gắn chặt với những “tiến bộ khoa học”.
Khổng giáo, ông Vĩnh nhấn mạnh, đem lại một sự đóng góp hàng đầu đối với người Á đông vì nó mang theo ưu thế tạo nên “một sự ổn định lạ thường”[29]. Hai mươi năm trước, ông không bao giờ nói như vậy.
Đây không phải là vấn đề của riêng Việt Nam. Sự khác biệt nằm ở chỗ trong hoàn cảnh bị Pháp đô hộ, bị kiểm duyệt và giám sát, trí thức Việt Nam không được tự do để “dân tộc hóa” những điều vay mượn của phương Tây như các người đồng nghiệp Nhật Bản hay Thái Lan. Người Việt Nam không cai trị đất nước mình, người Pháp không dành cho họ vai trò đó.
Nguyễn Văn Vĩnh không thể trở thành bộ trưởng Bộ Văn hóa Việt Nam giống như ông Vichit Vathakan nổi tiếng ở Thái Lan. Ông không thể có cái hokugaku hay hokutai trong nước Việt Nam thuộc địa giống như ở Nhật Bản, nếu không phải là những ý định thực hành theo hướng đó của nhiều nhân vật, đều bị liệt vào loại “chống Pháp”. Quá trình “dân tộc hóa” phương Tây hiện đại ở Việt Nam – giống như ở Nhật Bản và Thái Lan – chỉ có thể thực hiện một khi sự kiểm soát của chủ nghĩa thực dân biến mất.
Thật vậy, hốt hoảng trước những vụ nổi loạn của phong trào quốc gia vào cuối những năm 1920, các nhà cai trị thuộc địa như Pierre Pasquier đã quay về với quá khứ, về nước An Nam thuở xưa, nhằm làm sống lại nền quân chủ mà người Pháp đã lấy mất quyền lực và uy tín, trong khi vào lúc đó người Việt Nam, noi theo Nguyễn Văn Vĩnh và những người khác, đòi hỏi những thiết chế mới, gần phương Tây hơn, nhằm dựng nên một nước Việt Nam “mới”.
Hiển nhiên, không phải ngẫu nhiên mà tờ L’Annam Nouveau (Nước Nam mới) được thành lập khi Pierre Pasquier ca ngợi quá khứ để vực lại uy tín của nền quân chủ. Chúng ta cũng không ngạc nhiên khi ông Vĩnh và nhiều người khác đều phấn khởi trước cuộc cách mạng Thái Lan năm 1932 và sự sụp đổ của nền quân chủ chuyên chế nhường chỗ cho một “nền dân chủ có ích” [30].
…Để kết thúc những suy nghĩ về một con người đặc biệt trong một hoàn cảnh cực kỳ phức tạp của chính sách thuộc địa, tôi xin làm theo cách nhường lại lời nói của chính ông, rất có thể, điều này đã hé mở rõ hơn cho tất cả chúng ta hiểu được cái nan giải, cái cách lựa chọn một lý tưởng trong bối cảnh khó khăn của ông. Năm 1932, trong một bức thư ông gủi cho nhà Nho, nhà cải cách Huỳnh Thúc Kháng, ông đã viết:
“Cái hố sâu ngăn cách một nhà Nho chân chính như ông, người không còn tin vào những tư tưởng lẫn những phương pháp của quá khứ, với một người man di hiện đại như tôi, sản phẩm của một nền giáo dục hỗn tạp và khiếm khuyết, đang muốn tìm một vài chân lý trong cùng cái quá khứ đó, mà tôi, tất nhiên cũng không biết gì hơn ông Kháng, dù sao, cái quá khứ đó cũng hiện lên đối với tôi như một nguồn sức sống và ánh sáng chưa được biết tới.
Chúng ta đã gặp nhau trên cùng một con đường, ai cũng cho là mình đi đúng hướng…chẳng qua vì con đường đó chưa có. Giống như, rốt cùng, cả hai chúng ta đều đang đi tìm chân lý, thì không nhất thiết cứ phải đi theo cùng một hướng!”(76).
——————————————-
*Tiến sỹ Christopher E. Goscha, quốc tịch Mỹ, chuyên gia nghiên cứu lịch sử Việt Nam hiện đại. Cộng tác viên của Viện Viễn Đông Bác cổ Pháp. Hiện là giảng viên khoa Đông phương học thuộc đại học Montreal-Canada. Bài viết đăng trên RFHOM, T.88, số 332-333 (2001).
(Nguồn: Văn hóa Nghệ An)
[1] Tòa Đại lý Sêpôn, số 147, “Về cái chết của nhà báo Nguyễn Văn Vĩnh tại Keng Sep (Mường Sêpôn)” ngày 5 tháng 5-1936, phông lưu trữ RST-Thống sứ Bắc Kỳ, bộ mới (trước là RST/NF). Trung tâm lưu trữ Hải ngoại (CAOM). Tin ông qua đời đăng trên báo L’Annam Nouveau ngày 7 tháng 5-1936, “Cái chết của Nguyễn Văn Vĩnh”, L’Annam Nouveau (từ nay dẫn là AN) số 7-5-1936.
[2] Sở mật thám Bắc Kỳ, số 2164/S, “Nguyễn Văn Vĩnh và báo L’Annam Nouveau” ngày 28-2-1936, ký tên Arnoux, RST/NF, hồ sơ 4357, CAOM.
[3] Về nguyên nhân cái chết của Nguyễn Văn Vĩnh, xem: “Về chủ đề Nguyễn Văn Vĩnh qua đời”.
[4] Xem Nguyễn Văn Vĩnh, “Phụ nữ ở nước Nam”, AN ngày 15-5-1931.
[5] Xem những lời của Nguyễn Văn Vĩnh viết về Rabelais, Michelet và Victor Hugo, như những bài đã được Nguyễn Văn Tố in lại trong Bulletin de la société d’Enseignement Mutuel, số 1-2 (1936).
[6] Ta không thấy tên Nguyễn Văn Vĩnh trong Tuyển tập văn học Việt Nam (tiếng Pháp), tập III, Hà Nội, Nxb Ngoại văn, 1975.
[7] Nguyễn Văn Vĩnh, “Phan Bội Châu: nhà cách mạng hối cải”, AN (24-4-1932), (28-4-1932) và (22-5-1932).
[8] Maurice Durand và Nguyễn Trần Huân, Dẫn luận về văn học Việt Nam, Paris, Maisonneuve et Larose.
[9] Nguyễn Văn Vĩnh không xuất hiện trong công trình gần đây của Bernard Hue, Văn học bán đảo Đông Dương, Paris, Karthala, 1999, với lời tựa của Richard Féray. Ông cũng vắng mặt trong công trình của Thanh Tâm Langlet và Thu Trang Gaspard, “Các tác giả Việt Nam viết tiếng Pháp: Một ví dụ trao đổi văn hóa”, Études vietnamiennes, số 2 (1998), tr. 90-107. Trong “Nước Việt Nam và tiếng Pháp” của Nguyễn Khắc Viện cũng không nói một câu, cũng như trong “Văn hóa Pháp ở Việt Nam” của Cù Huy Cận, cả hai bài đều đăng trên tạp chí Xưa & Nay, số 45 (11-1997), tr. II-IV và XIII-X.
[10] Neil Jamieson, Alexander Woodside và Hồ Huệ Tâm đã có một cái nhìn sâu sắc đối với công trình của Nguyễn Văn Vĩnh. Xem: Neil Jamieson, Understanding Vietnam, Berkeley, University of California Press, 1993, tr. 65-80; Hồ Huệ Tâm, Radicalism and the Origins of the Vietnamese Revolution, Cambridge, Harvard University Press, 1992, tr. 29-30, 48, 51, 77 và 110; Alexander Woodside,Communism and Revolution in Modern Vietnam, Boston, Houghton Mifflin Company, 1976.
[11] Văn học (Sài Gòn), số 111 (tháng 9-1970). Xem thêm Kiêm Đạt, Luận đề Phạm Quỳnh và Nguyễn Văn Vĩnh, Sài Gòn, Nxb Trẻ, 1958.
[12] Đặc biệt xem David Marr, Vietnamese Tradition on Trial, 1920-1945, Berkeley, University of California Press, 1981.
[13] Vũ Bằng, “Tưởng nhớ một bực thầy: Quan Thanh Nguyễn Văn Vĩnh”, Văn học (Sài Gòn), số 111 (tháng 9-1970), tr. 12. Theo âm lịch, ông sinh ngày 30 tháng tư, năm Tự Đức thứ 35.
[14] Jamieson, sđd, tr. 65.
[15] Vũ Bằng, sđd, tr. 12-14, đã nhấn mạnh đến nhật ký của Nguyễn Văn Vĩnh.
[16] “Diễn văn của ông Phạm Huy Lục, Chủ tịch Viện dân biểu Bắc Kỳ”, AN (ngày 11-5-1936), và “Tiểu sử”, AN (ngày 7-5-1936).
[17] “Thư của ông Vĩnh viết từ Mạc-Xây gửi cho ô. Phạm Duy Tốn”, trong Kỷ niệm 90 năm ông Nguyễn Văn Vĩnh dịch Kim Vân Kiều (1997), và Vũ Bằng, sđd, tr. 16-20 nói về chuyến đi Marseille năm 1906.
[18] Ernest Babut chỉ đạo tờ Đại Việt tân báo, tờ báo không chính thức của Đông Kinh nghĩa thục. Phan Châu Trinh đã viết một vài bài báo đầu tiên của mình bằng chữ Hán trên báo này. Bản dịch sang tiếng Pháp một trong những bài viết của Phan Châu Trinh về sự cần thiết phải vận dụng khoa học và văn hóa phương Tây vào Việt Nam là bài “Nghĩ về thời hiện tại”, đăng trên Pionnier Indo-Chinois, số 10 (29-12-1907), tr. 104-105. Cần phải xác định tính chất của Đại Việt tân báo. Do tình bạn gắn bó giữa ông Vĩnh, Babut và Phan, có thể là ông Vĩnh đã đến với báo chí trước tiên ở tờ báo này.
[19] Le bourgeois gentilhomme, Les femmes savantes, L’Avare, Le malade imaginaire – Les misérables – Les fables de La Fontaine – Les trois mousquetaires – Le voyage de Gulliver. Một số tác phẩm sau này đã được dịch và xuất bản lại dưới các tên khác, đây là tên tác phẩm trên các bản dịch của Nguyễn Văn Vĩnh (ND.).
[20] Nguyễn Văn Vĩnh, “Tài trợ những công trình nông thôn”, AN, 24-8-1933, và “Dự án thành lập quĩ tín dụng bất động sản ưu tiên”, AN, 9-11-1933.
[21] Denys Lombard, Ngã tư đường Java, I: Những hạn chế của Âu hóa, dẫn luận.
[22] “Toàn quyền Đông Dương gửi Bộ trưởng Bộ Thuộc địa”, ngày 15-9-1917, phông Đông Dương, Toàn quyền Đông Dương, 65409, CAOM.
[23] “L. Marty gửi Toàn quyền Đông Dương”, ngày 3-3-1919, phông Đông Dương, Toàn quyền Đông Dương, d. 65407, CAOM.
[24] “Báo cáo về những nỗ lực ở Bắc Kỳ trong khoảng 25 năm để cung cấp những sách đọc tốt cho người An Nam”, ngày 17-2-1937, ký tên Vayrac, Giám đốc Phòng Xuất bản bản xứ, RSTF/NF, d. 05219, CAOM.
[25] Nguyễn Văn Vĩnh, “Báo chí tự do bản xứ”, AN, 20-4-1931.
[26] “Báo cáo về các sự kiện Bắc Kỳ”, tr. 9-11.
[27] Một cách ngịch lý, có lẽ ông đã làm nhiều hơn để thấm nhuần văn hóa Pháp vào Việt Nam trong thời thuộc địa, so với các nhà văn Việt Nam viết tiếng Pháp có thể làm sau này khi chế độ thuộc địa đã bị thủ tiêu.. Có lẽ là do ông du nhập ngôn ngữ và văn hóa Pháp vào Việt Nam bằng tiếng Việt chứ không phải bằng tiếng Pháp. Nó giải thích tại sao đến ngày nay, Nguyễn Văn Vĩnh vẫn không có tên trong lịch sử “Pháp ngữ” hậu thuộc địa, đặc biệt trong các công trình tiếng Pháp.
[28] Ở Lào và Campuchia lại càng ít hơn, nơi đó ảnh hưởng của Pháp tương đối ít hơn và họ ít quan tâm đến việc hiện đại hóa mà Nguyễn Văn Vĩnh và nhiều người Việt Nam khác từng mơ tưởng.
[29] Nguyễn Văn Vĩnh, “Cuộc vận động tân sinh ở Trung Quốc”, AN, 11-10-1934.
[30] “Bài học của cách mạng Xiêm”, AN, 3-7-1932.
(Đăng lại từ Vanvn.net)