Có một văn phong Hồ Chí Minh trên hành trình 50 năm viết, đó là hành trình từ bản Yêu sách của nhân dân Việt Nam viết năm 1919 đến bản Di chúc sửa lần cuối cùng vào năm 1969, đó cũng chính là quá trình hình thành và phát triển lên các tầm cao của nền văn học hiện đại – cách mạng Việt Nam thế kỷ XX.
Thế kỷ XX chúng ta tự hào nói đến nền văn học hiện đại cách mạng Việt Nam như một nền văn học mang tinh thần chống đế quốc kiên quyết và triệt để nhất, chúng ta càng thấm thía vai trò mở đầu, ý nghĩa đặt nền móng của nó được Nguyễn Ái Quốc xây nên ngay từ những năm 1920 trên địa bàn Paris của nước Pháp ở Tây bán cầu, nơi là sào huyệt của chủ nghĩa tư bản hiện đại, cũng là trung tâm của phong trào vô sản – cách mạng thế giới. Vòi vọi trong thời gian, những truyện và ký của Nguyễn Ái Quốc lên án chủ nghĩa thực dân, dựng lại những nỗi thống khổ vô hạn của các dân tộc thuộc địa, chỉ rõ con đường đấu tranh giải phóng cho họ ra khỏi thân phận của người nô lệ… vẫn là ánh sáng soi rọi, xuyên suốt toàn bộ nền văn học hiện đại Việt Nam thế kỷ XX. Bên cạnh hình tượng “con quỷ vàng” trong văn chính luận của Gorki, có tên thực dân đi “khai hoá” thuộc địa trong văn tiểu phẩm của Nguyễn Ái Quốc. Bên cạnh bức tranh cuộc sống của công nhân trong các nước tư bản công nghiệp ở phương Tây mà ta đã quen thuộc, có hình ảnh người nông dân ở châu Á, châu Phi… với nỗi thống khổ vô tận và tiềm năng cách mạng lớn lao ở họ.
Có một văn phong Hồ Chí Minh – đó là hiện tượng nổi lên khi ta tiếp xúc, thâm nhập vào thế giới văn thơ của Bác Hồ. Một văn phong đa dạng, đa dạng nhưng nhất quán trong “đề tài”, trong mục tiêu phục vụ cách mạng và nhất quán trong giọng điệu. Một văn phong là sản phẩm của riêng Hồ Chí Minh nhưng cũng là sản phẩm của dân tộc và thời đại. Một văn phong hoà nhuyễn, gắn nối dân tộc với nhân loại, truyền thống và hiện đại, Đông và Tây, tính nhân văn và tính Đảng… Một văn phong đáp ứng và thoả mãn được nhu cầu rất đa dạng của mọi tầng lớp công chúng trong suốt hành trình cách mạng hơn một thế kỷ, từ công chúng thế giới trở về công chúng dân tộc, từ công chúng chọn lọc đến công chúng phổ cập, từ các tầng lớp trí thức uyên bác đến quảng đại quần chúng nhân dân còn trong tình cảnh tối tăm.
Có một văn phong Hồ Chí Minh làm nên dấu ấn đặc sắc trong văn học hiện đại Việt Nam, không phải bằng sự mài giũa hoặc trau chuốt về ngôn từ, bằng sự cả tiếng hoặc lên giọng. Thế mà ở bất cứ giai đoạn nào, hoặc thời điểm nào của lịch sử, tiếng nói ấy cũng cứ nổi lên như một sự cuốn hút hoặc lan toả, như một nguồn ánh sáng hoặc sức lay gọi. Hãy nhớ lại những năm 1920 với Người cùng khổ và Bản án chế độ thực dân Pháp, và thời điểm những năm 1930 với Nhật ký chìm tàu. Hãy nhớ lại những năm 1940 với loạt thơ tuyên truyền cổ động và Nhật ký trong tù xuất hiện như một sự ngẫu nhiên. Và thời điểm 1945 với bản Tuyên ngôn độc lập bất hủ. Rồi những năm tháng cả dân tộc đi trong khói lửa của hai cuộc chiến tranh, có lúc nào mà người dân Việt Nam nào không khát khao ngóng đợi từng tiếng nói của Bác Hồ. Tiếng nói của lịch sử và của cha ông trong các bài thơ mỗi khi Tết đến Xuân về và những Lời kêu gọi của Người mỗi khi đất nước đứng trước những lựa chọn sinh tử, những bước ngoạt lịch sử. Tiếng của nhân dân, của người ruột thịt trong các bài nói, bài viết hàng ngày của Người. Lịch sử dân tộc và lịch sử văn học hiện đại sẽ nhận vào mình tiếng nói của Hồ Chí Minh trong một âm điệu riêng không lẫn, ai nghe cũng có thể nhận biết, dẫu với bất cứ khoảng cách nào của không gian và thời gian.
Có một quy mô riêng, kích thước riêng ở văn thơ Hồ Chí Minh như ta thấy không phải bằng lượng đắp dày của số trang, bằng độ dầy của mỗi quyển, bằng sự đồ sộ của vóc dáng, hoặc bề bộn của câu chữ. Chỉ có sự gọn nhẹ, linh hoạt của những tiểu phẩm vài trăm hoặc nghìn chữ, những chuyện kể theo lối chương đoạn với các tình huống truyện không gây căng thẳng, với những khổ thơ 4 hoặc 8 câu hoặc dài lắm cũng không quá vài chục dòng, với những truyện ngắn vài ba nhân vật mà hình trạng và hoạt động của họ bao chiếm không quá dăm trang, với những khổ văn ngắn mà vẫn có điểm xuyết thơ cho dễ nhớ, dễ thuộc… Ngắn gọn, linh hoạt, uyển chuyển, không cần những kích thước lớn… không phải vì người viết không có khả năng “viết dài, nói lớn”; mà vì người viết thấy không cần làm khác, thấy phải như vậy mới thích hợp… Thích hợp với nhiều thế hệ và tầng lớp công chúng đang rất cần tìm đến văn thơ như một vũ khí nhằm giải phóng và biến cải cuộc đời mình. Luôn luôn Người biết đứng về phía nhu cầu của người đọc, cũng chính là Người làm chủ được mọi vũ khí hoặc phương tiện có trong tay.
*
Có nhà nghiên cứu ca ngợi văn tiếng Pháp của Nguyễn Ái Quốc là rất Pháp(1) hoặc thơ chữ Hán của Hồ Chí Minh để lẫn vào thơ Đường – Tống cũng không sao(2). Đó là một nhận xét hay! Nhưng một hướng khai thác khác cũng nên đặt ra như một sự bổ sung, hoặc tương phản là mỗi khi viết bằng thứ tiếng nước ngoài nào, tác giả vẫn là người Việt Nam; hơn nữa, vẫn là Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh – người mà bất cứ hoàn cảnh nào, giờ khắc nào, tâm trí cũng như chiếc kim địa bàn, nhạy bén và kiên định, quay trở về dân tộc. Có phải vì thế mà Ôxip Mandenxtam, nhà văn Xô Viết, năm 1923 đã có nhận xét rất tinh: “Đồng chí nói tiếng Pháp, tiếng của những kẻ bóc lột đồng chí, nhưng mà những chữ Pháp từ miệng đồng chí Nguyễn Ái Quốc nghe trầm lắng xuống như tiếng vọng bị nén lại của tiếng mẹ đẻ quê hương đồng chí”(3).
Nếu chú ý ngôn ngữ như là công cụ thứ nhất của thơ văn thì việc viết lịch sử văn học, hoặc làm hợp tuyển văn thơ phải chú ý đến tác giả Hồ Chí Minh là người viết bằng nhiều ngôn ngữ, trong đó ở khu vực tiếng Pháp và tiếng Hán, tác giả đã để lại nhiều áng thơ văn có giá trị. Nhưng mặt khác, điều hợp lẽ và tất yếu là các bộ phận ấy của văn thơ Hồ Chí Minh vẫn là một khu vực gắn bó hữu cơ của văn học cách mạng hiện đại Việt Nam, trong thời đại đế quốc chủ nghĩa và cách mạng vô sản, khi các mối giao lưu quốc tế đã là phổ biến và trở thành đặc điểm mới của thời đại.
Hành trình tìm đường của Nguyễn Ái Quốc là từ Đông sang Tây, từ dân tộc mà đến với nhân loại. Nhưng đích cuối cùng của Nguyễn Ái Quốc là trở về phương Đông, về với dân tộc. Văn thơ Nguyễn Ái Quốc là sản phẩm của một người sử dụng sành sỏi nhiều thứ tiếng, nhưng luôn luôn không nguôi niềm khao khát viết tiếng Việt và nói với đồng bào. Người đi khắp năm châu bốn biển, nhưng trong ngôn ngữ thường ngày vẫn quen thuộc với tiếng nói dân tộc và ngay đến ngôn ngữ địa phương Nghệ Tĩnh, vẫn cứ không quên. Người về nước, trực tiếp làm báo tiếng Việt cho đồng bào đọc, nhưng vẫn biết dùng cả tiếng Tày, Nùng, Dao… là tiếng của các dân tộc thiểu số, để cùng sống, sinh hoạt với nhân dân nơi căn cứ địa.
*
Nhiều người đã nói đến sự kết hợp giữa một “cốt cách cổ điển” với những “sáng tạo hiện đại”, giữa truyền thống và cách tân, giữa phương Đông và phương Tây… như một đặc sắc trong văn thơ Hồ Chí Minh. Dẫu vậy, điều mới mẻ không phải chỉ ở chỗ phát hiện cho thấy trong văn thơ Hồ Chí Minh có nhiều âm điệu. Vấn đề còn là ở chỗ: Từ sự tổng hòa, sự kết hợp của những âm điệu ấy vẫn có một nét gì riêng, được chung đúc, làm nên phong cách văn thơ Hồ Chí Minh để có riêng một văn phong Hồ Chí Minh. Viết Bản án chế độ thực dân Pháp trong phong cách hiện đại sắc sảo cho công chúng phương Tây, hay viết bằng chữ Hán trong phong cách trang trọng của cổ thi cho một nhật ký thơ, tưởng như chỉ để riêng cho mình đọc, hoặc lưu lại một kỷ niệm, với tất cả hiệu quả có được, dường như vẫn chưa phải là điều Nguyễn Ái Quốc muốn đạt đến. Cái tác giả muốn đạt đến là sao cho văn thơ viết ra, được chính đồng bào mình, tức những người nghèo khổ nhất, những người bị thiệt thòi nhiều nhất trong xã hội, đọc và hiểu được; tức là với một phong cách thơ sao cho đạt được sự giản dị nhất – một sự giản dị bắt nguồn sâu trong truyền thống cảm nghĩ của dân tộc và gắn bó mật thiết với những nguyện vọng thiết cốt nhất của quần chúng nhân dân. Phải chăng đó mới chính là phần lắng sâu nhất, ổn định nhất của văn phong Hồ Chí Minh, cái phần làm rung động mạnh mẽ nhất con tim khối óc của hàng chục triệu nhân dân Việt Nam suốt hơn một thế kỷ qua. Con người đã bôn ba khắp năm châu bốn biển, sử dụng sành sỏi bao nhiêu thứ tiếng, con người ấy vẫn là một mẫu mực tuyệt vời của văn phong dân tộc. Con người có đủ mọi chìa khóa ngôn ngữ để đến với mọi lớp người, thuộc mọi lứa tuổi, mọi trình độ khác nhau, bất cứ ở phương trời nào, nhưng trên tất cả, vẫn là nhằm nói và viết cho chính đồng bào mình. Con người giàu có bao nhiêu kiến thức, tiếp nhận và tiêu hóa bao nhiêu tinh hoa của nhân loại, nhưng thấm sâu vào tất cả vẫn là một cái gì rất Việt Nam và rất Hồ Chí Minh, không bắt chước ai và cũng không ai bắt chước được!
Cuối cùng, trên hành trình 50 năm viết, kể từ Yêu sách của nhân dân Việt Nam viết năm 1919 đến Di chúc viết năm 1969, không phải lúc nào Hồ Chí Minh cũng có mặt như một người viết chuyên nghiệp; nhưng thơ văn Hồ Chí Minh luôn luôn có mặt ở những thời điểm trọng đại của dân tộc. Đó là Yêu sách gửi Hội nghị Vecxay năm 1919 đến Bản án chế độ thực dân Pháp năm 1925 và Đường Kách mệnh năm 1927. Đó là trên 30 Bài ca Việt Minh viết trong những năm 1941-1942 và Ngục trung nhật ký viết năm 1943 đến Tuyên ngôn độc lập viết năm 1945. Đó là Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến năm 1946 và Không có gì quý hơn Độc lập Tự do năm 1966 đến Di chúc năm 1969. Thơ văn Hồ Chí Minh cùng đồng hành với cách mạng Việt Nam. Nhân dân Việt Nam tìm thấy ở thơ văn Hồ Chí Minh tiếng nói của chính mình. Một tiếng nói tiêu biểu và kết tinh cho mọi suy tư và nguyện vọng thẳm sâu của mọi lớp người lao khổ. Một tiếng nói cho hiện tại và cho cả tương lai.
Có phải là từ văn thơ Hồ Chí Minh, văn học Việt Nam hiện đại đã tìm thấy một văn phong kiểu mẫu, một tiếng nói đại diện và một quy mô thích hợp cho sự phát triển trên chặng đường hơn một thế kỷ qua?
(1) Phạm Huy Thông: “Lời nói đầu” – bản dịch Truyện và ký Nguyễn Ái Quốc. Nxb. Văn học, H; 1971.
(2) Quách Mạt Nhược: Tập san Nghiên cứu văn học; số 5-1960.
(3) Báo Lửa nhỏ, số 39 (23-12-1923); sách Văn hóa – Nghệ thuật cũng là một mặt trận. Nxb. Văn học, H; 1981; tr.176.
Nguồn Văn nghệ số 35+36/2019