Người Tày là nhóm cư dân thuộc ngữ hệ Tày Thái. Do hoàn cảnh địa lý, họ có điều kiện tiếp xúc và thu nạp các nền văn hóa, văn minh, từ các dân tộc khác sớm hơn. Phải chăng vì thế mà sắc thái văn hóa Tày có phần nào bị pha loãng, mai một dần.
Người anh em dân tộc Thái ở Tây Bắc, hình như họ ít bị ảnh hưởng bởi tác động qua lại của các dòng văn hóa khác. Đến nay họ vẫn còn lưu giữ được nguyên vẹn chữ viết. Đó là hệ chữ Thái cổ, có nguồn gốc từ Ấn Độ, dưới dạng Sanskrit. Nó xuất hiện, hình thành bộ chữ này và sử dụng từ thế kỷ XI cho đến nay. Từ xa xưa chắc rằng người Tày cũng có chữ viết cho riêng mình. Nhưng chẳng hiểu vì lý do gì mà ngày nay không tìm thấy chữ Tày cổ ở đâu nữa. Đấy là một thiệt thòi vô cùng to lớn cho các thế hệ con cháu.
Một vài bằng chứng nữa cho thấy người Thái còn lưu giữ được các món ăn làm chín bằng cách hấp, đồ, nướng, hoặc vùi tro… Nên các món thịt, cá, rau, rêu, củ… vừa thơm ngon vừa không bị ngấy.
Còn người Tày thì quen xào, nấu, chiên, ninh nhừ… cho nhiều dầu mỡ, gần với kiểu cách nấu nướng của người Tàu. Những món được coi là đặc sản: Nằm khau (có nơi gọi khau nhục) vịt quay, xá xíu, thịt nấu đông, canh xin thang… được gia giảm ngâm tẩm với nhiều hương liệu, rồi mới được chế biến, nấu nướng. Thực sự đó là những đồ ăn ngon, lạ miệng, nhưng chế biến cầu kỳ.
Người Thái có nhạc cụ pí đơn, pí pặp, có điệu hát khắp Xống chụ xon xao tiễn dặn người yêu. Có Tản chụ xiết xương chàng trai khen cô gái tài sắc. Có Hạn Khuống những bài hát dưới sàn trăng…
Lễ cấp sắc cho bà Then của người Tày.
Còn người Tày có hát then khảm hải vượt biển, các điệu lượn, cò lẩu và hát. Đặc biệt có điệu hát bằng lời Kinh. Kiểu hát độc đáo này có lẽ chỉ ở người Tày Trùng Khánh, Hạ Lang thuộc miền đông tỉnh Cao Bằng mới có.
Đây là điệu hát dzàng trong lễ kỳ yên, cấp sắc: lệnh truyền các quan cao thánh tướng/đã đến giờ đế vương xuất binh… hoặc điệu hát trong lượn hoa tình, mà cha đẻ là ông Nông Quỳnh Vân (vào khoảng thế kỷ XVII) người tổng Nga Ổ, nay thuộc xã Trí Viễn, huyện Trùng Khánh: gặp nhau ta hãy chào nhau/phòng khi đi lại mai sau được chào; hoặc trên trời có đám mây vàng/ nàng ơi nàng hỡi tên nàng là chi… Một bằng chứng rõ rệt người Tày nơi đây đã tiếp thu văn hoá người Kinh, làm nên điệu hát phong tình có một không hai trên thế gian này.
Trong ngôn ngữ giao tiếp hàng ngày, người Tày cũng có ảnh hưởng qua lại với người Hán. Ví dụ: Tiếng Tày ngỏ bấu tải xèn (tôi không mang tiền). Tiếng Hán wo bu dai qian (tôi không mang tiền); Tiếng Tày có pjẻ (lộn, trái, ngược), pải (bôi, tan nát, phung phí), tiu (quẳng, lẳng, tung), xá (đánh răng, đánh trôn nồi, lau kính) Trong tiếng Hán cũng tương tự: pie, pai, diu, ca… Tất nhiên không nhiều, nhưng qua các hiện tượng vay mượn này có thể nói văn hóa người Tày nằm kẹp và giao thoa giữa hai nền văn hóa lớn. Vì thế văn hóa bản địa Tày bị pha loãng là khó tránh khỏi.
Kể từ khi hòa bình lập lại trên miền Bắc, nhất là sau ngày thống nhất đất nước, hiện tượng văn hóa Tày bị pha tạp, mai một ngày càng nhiều. Không gian văn hóa Tày bị các dòng văn hóa khác xâm thực, xói mòn làm mất dần bản sắc. Cái mất rõ nhất là tiếng nói và chữ viết. Con em người Tày sinh sống trong đô thị, hầu như rất ít người còn biết nói tiếng mẹ đẻ. Thậm chí những bậc làm cha mẹ sống ngay trong làng bản thuần Tày, dạy tiếng Việt cho trẻ ngay từ lúc bi bô học nói. Họ bảo làm như thế để sau này các cháu đi học hòa nhập với mọi người, với xã hội cho kịp. Tôi cho rằng đấy là một dạng tự sát về văn hóa.
Tôi nhớ có một vài anh Tày đi bộ đội, xa nhà chỉ độ dăm ba năm. Ngày trở lại làng bản, họ làm như đã quên hết, không biết nói tiếng Tày nữa. Những người mẹ sinh ra họ, chứng kiến cảnh con cái như thế, vô cùng đau! Nhục! Xấu hổ! Muốn độn thổ!
Tiếng mẹ đẻ là thứ gia bảo mà còn bị đối xử tàn nhẫn như thế, nói gì các phong tục tập quán khác. Tự chúng ta muốn làm mất tiếng Tày đi, chứ có phải ai cưỡng bức, ai súi dục sai khiến. Tự mình làm mất bản sắc văn hóa là điều tệ hại và cực kỳ nhục nhã. Nhưng tại sao phải thế, nếu không xuất phát từ tâm lý tự ty? Tự thấy mình nhỏ bé hèn kém so với các dân tộc khác.
Không đâu. Người Nùng An đi đến chân trời góc bể nào cùng chỉ nói tiếng Nùng An, mặc áo chàm đi và chân đất. Người Hmông, người Dao, người Thái, người Sán Chay, Sán Chí…họ đều có ý thức giữ gìn bản sắc dân tộc. Họ không cần phải nói tiếng Kinh thành thạo như người Hà Nội. Họ không cần ăn mặc sành điệu như người Tây phương. Họ cứ áo quần xuềnh xoàng, áo cài cúc ngang, chân đi hài cỏ, cứ khăn xanh xanh đỏ đỏ quấn lên đầu, trông mộc mạc chân thành, mà họ đẹp một cách hãnh diện.
Đấy mới đích thực là những cử chỉ, hành vi của người tôn trọng văn hóa nhất. Lòng tự hào dân tộc chính đáng nhất.
Không có nỗi buồn nào xót xa bằng nhìn những đứa con do mình đẻ ra, bằng con mắt xa lạ. Bởi chúng ngày càng ăn mặc sặc sỡ, ngổ ngáo, hầm hố như từ đâu rơi xuống. Chúng nói năng trơn tru, làu làu những thứ ngôn ngữ của dân tộc khác. Chúng chơi bời, hát hò nhảy múa, theo làn điệu của các dân tộc khác. Chúng thích các món ăn nhanh của Tây Tàu, vừa đắt đỏ vừa nhạt nhẽo, nguội ngắt. Chúng ru con bằng các điệu nhạc Âu Mỹ giật đùng đoàng. Bởi chúng không hề biết một câu hát ru nọong ơi nòn… nuột nà sâu lắng của người Tày.
Thực sự tôi không biết phải làm gì cho các con tôi hiểu. Dù rằng nền văn hóa ấy có hay có đẹp đến cỡ nào, tất cả đều là của mượn. Đã mượn là phải trả. Chưa trả lúc này thì trả lúc khác. Đời này chưa trả, đời sau ắt phải trả. Đấy là lẽ công bằng của tạo hóa. Chỉ những gì mà ông bà ta để lại mới là của mình mãi mãi. Tài sản văn hóa Tày không hề kém cỏi với bất cứ dân tộc nào trên trái đất. Thậm chí rất độc đáo.
Chúng tôi không có điều kiện đi nhiều, học hỏi nhiều, tiếp xúc nhiều, đọc nhiều sách báo. Nhưng qua các phương tiện truyền thông đại chúng, thấy rất ít đề cập tới bảo tồn văn hóa dân tộc. Một vấn đề đòi hỏi cấp thiết trước mắt và lâu dài. Nhằm phổ biến rộng rãi trong việc giữ gìn vốn văn hóa dân tộc còn quá ít ỏi và hiện nay đang có nguy cơ tự hủy bởi nhiều lí do khác nhau.
Báo chí cần phải lên tiếng trước một thực trạng cực kì nguy hiểm, là các cấp các ngành không thấy tầm quan trọng của công tác văn hóa. Họ chỉ dồn sức cho cơm áo gạo tiền, bởi nó gắn liền với cuộc sống thường nhật. Điều này không lạ. Và rất cần thiết. Nhưng chỉ chú trọng điều này thôi thì quả là lệch lạc thiên vị.
Một thứ một kiểu tư duy “Thằng Bờm” chỉ thấy lợi trước mắt mà không thấy sự nguy hiểm trong việc đánh mất những giá trị văn hóa lâu dài. Ăn chân giò hôm nay ngày mai có sữa liền. Nhưng để được một con người có tâm hồn có nhân cách phải nuôi dưỡng bằng lời ru của người mẹ, của bà. Lớn lên chút nữa phải dạy bò, dạy đứng, dạy đi, dạy ăn dạy nói dạy cư xử… Nghĩa là mất rất nhiều thời gian và công sức giáo dục mới mong trở thành một con người hoàn chỉnh.
Báo chí truyền thông có một sức mạnh không gì so sánh nổi. Ông cha chúng ta đã từng tôn vinh công tác tuyên truyền bằng báo chí và văn chương: “Một ngòi lông vừa trống vừa chiêng” (Phan Bội Châu) hoặc “Dùng cán bút làm đòn xoay chế độ/ Mỗi vần thơ bom đạn phá cường quyền” (Sóng Hồng).
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và gần đây nhất là đế quốc Mỹ, công tác tuyên truyền bằng báo chí (trong đó có mảng hoạt động văn học nghệ thuật) chiếm một vị trí cực kì nhạy bén và cực kì quan trọng. “Cả nước lên đường từng hồi trống giục…” (Chính Hữu), “Đất nước của những người con gái con trai/ đẹp như hoa hồng rắn hơn sắt thép/ xa nhau không hề rơi nước mắt/ nước mắt chỉ để dành cho ngày gặp mặt” (Nam Hà)…
Báo chí ngày nay tập trung phản ánh đời sống xã hội qua các hoạt động chính trị, kinh tế, ngoại giao, vui chơi giải chí… Mảng dành cho công tác văn hóa vẻn vẹn vài tờ báo gọi là chuyên về công tác văn hóa. Đó là các tờ: Văn hóa và Du lịch; Văn hóa và Thể thao; Văn hóa và Phật giáo; Văn hóa Online…
Tôi chưa thấy một tờ nào chuyên về công tác bảo tồn di sản văn hóa dân tộc. Điều này, nó đã phản ánh quan điểm chỉ đạo của bộ chuyên ngành ít quan tâm đến văn hóa tinh thần. Họ chỉ tập trung đầu tư cho những hoạt động văn hóa làm ra lợi nhuận. Đó là du lịch. Những nhà máy không khói. Đó là thể thao… Nhất là môn bóng đá. Môn thể thao vua.
Có nhan nhản các tờ phụ trương thông tin bóng đá trong nước và thế giới. Thì đương nhiên công tác bảo tồn văn hóa dân tộc bị bỏ ngỏ. Đất nước chúng là là một quốc gia thống nhất có 64 dân tộc anh em. Mỗi dân tộc có một chiều dài lịch sử và bề dày văn hóa riêng biệt. Chỉ riêng công tác bảo tồn và phát huy văn hóa các dân tộc là cả một khối lượng việc làm đồ sộ.
Trước thực trạng đáng lo lắng này, chúng tôi từng là người tham gia công tác trong nghành văn hóa ở một tỉnh miền núi biên giới, nơi có nhiều đồng bào người dân tộc thiểu số. Và chúng tôi đã thẳng thắn lên tiếng bằng những bài báo lẻ tẻ. Nhưng chỉ là tiếng một hòn sỏi vang lên trong lòng giếng cạn.
Y Phương – Văn nghệ công an