Những khúc than thân, khúc phản kháng kiểu này tưởng đã là chuyện của ngày xửa ngày xưa nhưng tận những năm đầu thế kỷ XXI vẫn cứ vang ngân khắc khoải hôi hổi tính thời sự. Từ góc nhìn nữ quyền luận, chúng ta thêm nhận diện đầy đủ tính hiện đại của “Cánh đồng bất tận” (Nguyễn Ngọc Tư).


1. Khúc bi ca về thân kiếp đàn bà

Đến với Cánh đồng bất tận, ta bắt gặp những người đàn bà mà kiếp họ là kiếp nạn. Họ nổi nênh, cô đơn, nhục tủi, bi đát trong một thế giới đói nghèo, tăm tối với những cánh đồng “trống trơn” giữa “mùa hạn hung hãn”, những con kinh hoặc “khô trơ lòng”, hoặc “nước đã sắc lại thẫm một màu vàng u ám”…

Đó là người má của hai đứa trẻ Nương và Điền với “tiếng thở thườn thượt, nghe buồn mênh mông, chảy từng giọt như nước mắt”. Chị thở dài những lúc ngồi vá những bộ quần áo cũ, những lúc “tay bối rối nắn vào hai túi áo mỏng kẹp lép”. Trước mỗi chuyến đi mới của chồng, chị lại hỏi câu hỏi con trẻ: “Đi chuyến này nữa là đủ tiền mua ti vi màu, phải hôn anh?”. Chị cùng những người đàn bà lam lũ quê mùa ngày ngày trông ngóng chiếc ghe của người đàn ông bán vải dạo. “Tất cả họ đều trở thành trẻ thơ khi bước chân lên ghe, họ tíu tít, háo hức, họ thèm muốn đến bồn chồn rồi dùng dằng trở lên bờ với tâm trạng tiếc nuối, ngậm ngùi, thấy mình già khi ngang qua bồ lúa vừa hớt bớt một lỏm, thằng cha bán vải lấy mấy giạ mà như khứa một ít tuổi xuân đi. Cả đời, cái bồ lúa luôn làm lòng họ đau đáu, khi nghĩ tới bệnh tật, chuyện cất lại cái nhà, hay dựng vợ gả chồng cho con cái”…

Đó là những người đàn bà trước khi đến với Út Vũ chưa một ngày được làm vợ đúng nghĩa. Bởi những ông chồng “thích uống say”, “thích dùng tay chân để tỏ rõ uy quyền”, “có khi cả đời, không nói với phụ nữ một câu yêu thương tử tế. Họ không biết vuốt ve, âu yếm, khi cần, họ lật cạch người phụ nữ ra và thoả mãn, rồi quay lưng ngủ khò”…

Đó là người đàn bà Bàu Sen bị chồng bỏ để chạy theo nhân tình trẻ. Rát tê trước sự thay lòng, “chị te tái cắp nón đi suốt, tìm ông thầy này, bà cốt kia, để thỉnh bùa chú cho ông chồng quay lại”. Kết quả là chồng chị “bỏ ngay cô nhân tình này và trớ trêu, anh ta chạy theo… cô khác. Ba mùa lúa rồi chị ra đồng một mình. Một mình nuôi con. Một mình nhìn gương, tự ve vuốt và yêu lấy mình…”. Và những tưởng số phận đã mang an ủi chị người đàn ông khác, nào ngờ… Chị cứ “buộc mình tin rằng sự chọn lựa (rất nhanh, mặt tở mở và rạng rỡ, gần như không suy nghĩ gì) của mình là đúng, tình yêu của mình xứng đáng được đánh đổi. Xóm làng, ngôi nhà, vườn tược trôi tuột lại phía sau. Và đứa con gái”. Nhưng than ôi, ngày vui ngắn chẳng tày gang, chị bị người đàn ông (tưởng) của mình bỏ lại, khi vừa đi được một đoạn đường…

Đó là những người đàn bà sau này của Út Vũ, những con thiêu thân khác tự nguyện lao vào anh ta. Với họ, Út Vũ “tính toán rất vừa vặn, sao cho vừa đủ yêu, vừa đủ đau, vừa đủ bẽ bàng, và bỏ rơi họ đúng lúc”. “Có người vừa bán xong cái quán nhỏ của mình. Có người vừa nói xong những lời dứt tình với chồng con. Có người vừa phũ phàng chia xong gia sản, có cô gái sắp về nhà chồng, củi to củi nhỏ chất thành giàn ngoài chái… Hết thảy đều cun cút tin và yêu”. Anh ta mang họ đi một quãng đường rồi hắt họ lên bờ. “Con đường quay về bị bịt kín”. Nỗi bẽ bàng của những người đàn bà bị Út Vũ bỏ rơi (“và cộng thêm niềm đau vỡ của những người quây quanh họ”) “đã thấu qua những tầng mây”…

Đó là người đàn bà can tội “làm đĩ” bị đồng loại trừng trị theo kiểu kinh dị thời trung cổ. “Môi chị sưng vểu ra, xanh dờn. Và tay, và chân, và dưới cái áo mà tôi đã đắp cho là một cái áo khác đã bị xé tả tơi phơi những mảng thịt người ta cấu nhéo tím ngắt”. “Và những chân tóc trên đầu chị cũng đang tụ máu. Người ta đã lòn tay, ngoay chúng để kéo chị lê lết hết một quãng đường xóm, trước khi dừng chân một chút ở nhà máy chà gạo. Họ giằng ném, họ quăng quật chị trên cái nền vương vãi trấu (…) Họ dùng chân đá vói vào cái thân xác tả tơi kia bằng vẻ hằn học, hả hê (…) Họ dùng dao phay chạt mái tóc dày kia, dục dặc, hì hục như phạt một nắm cỏ cứng và khô”. Và, kinh hãi thay, “người ta đã đổ keo dán sắt vào cửa mình của chị…”… Và rồi chị đã gặp Út Vũ cùng hai đứa trẻ. Trước sức quyến rũ của người đàn ông tứ tuần, trước tình yêu thương, sự quyến luyến của hai đứa nhỏ thiếu mẹ, chị đã “cun cút tin và yêu”, cun cút hướng thiện. Những tưởng sẽ có riêng bến bờ để neo đậu thuyền em rách nát, nhưng không ngờ… “Cha đưa chị một ít tiền ngay trong bữa cơm, khi nhà đủ mặt, “Tôi trả cho hồi hôm…”. Rồi cha điềm nhiên phủi đít đủng đỉnh đứng lên, sự khinh miệt và đắc thắng no nê trong mắt”. Và tiếp theo là giấc ngủ cùng tiếng thở “sao mà đều, sao mà thơ thới” của người tưởng đã là của mình khi chị làm phép thử mang thân đi “đổi chác” với hai ngài cán bộ ấp xã. Sau cuối, chị tan nát “quay đi. Chân vướng dấp dúi vào cỏ. Con đường nhỏ dầm chan trong màu hoa mua tím”, tím như nỗi ê chề bẽ bàng của chị – người tưởng chừng bao quản lấm đầu kiếp thân lươn

Đó là “rất nhiều người phụ nữ giống chị” “chớm tàn tạ, đói rã ruột ở thị thành mới chạy xuống quê, cất cái quán nhỏ, giả đò buôn bán bánh kẹo lặt vặt, thực chất là làm nghề”. “Cứ mỗi mùa gặt, họ lại dập dìu trên đê, lượn lờ quanh lều của những thợ gặt, những người đàn ông giữ lúa và bọn nuôi vịt chạy đồng. Họ cố làm ra vẻ trẻ trung, tươi tắn nhưng mặt và cổ đã nhão, nhìn kỹ phát ứa nước mắt. Đêm đến, sau các đụn lúa, họ thả tiếng cười chút chít, tiếng thở mơn man… lên trời, làm nhiều người đàn bà đang cắm cúi nấu cơm, cho con bú trong lều thắt lòng lại”…

Đó là những người đàn bà cùng bầy con “nheo nhóc bu quanh nồi khoai luộc trong nhập nhoạng nắng chiều” giữa khi người đàn ông của họ dốc kiệt túi tiền để mua cơn hoan lạc ngắn ngủi nơi những người đàn bà thị thành cùng đường xuống quê “làm nghề”…

Đó là Nương cùng những cô gái mới lớn mà sắc đẹp trời phú cũng chẳng biết để làm gì. “Ở cái xó quê này, có đẹp mai mốt cũng phải lấy chồng, đẻ một bầy con nheo nhóc, cũng ra ruộng ra vườn làm lụng đến hết đời, xẹp lép như xác ve”. Mà “suốt những tháng năm sống tù đọng trên đồng, tôi có biết ai ngoài những người đàn ông quê mùa cũ kỹ. Tôi biết lấy ai trong số đó? Lấy một người cắm mặt xuống đất, mệt nhừ với vườn ruộng để mỗi khi giáp hạt, tôi nghe tiếng cạo cháy của con, tiếng muổng dừa vét gạo dưới đáy thạp mà rát bỏng trong lòng? Hay tôi sẽ chọn một người chăn vịt, mê mỏi với chuyến đi xa, sống cuộc sống hờ hững tạm bợ, thấp thỏm với rủi ro, và đến một lúc nào, tôi ôm con nghe đêm của mùa gặt thật dài với tiếng rúc rích của chồng cùng cô điếm già nua. Tôi lấy ai bây giờ, một người thợ gặt? Một anh chạy đò? (…) Tôi không chắc mình có đủ kiên nhẫn sống cuộc sống nghèo túng, nhàm chán ấy suốt đời, hay nửa chừng bỏ dở”…

Không đủ kiên nhẫn sống cuộc sống nghèo túng, nhàm chán suốt đời là tâm-thế-sống chung của thế giới đàn bà trong Cánh đồng bất tận, làm nên âm-hưởng-nữ-quyền chủ đạo của tác phẩm. Người vợ Út Vũ không cam chịu tình trạng hai túi áo quanh năm “mỏng kẹp lép”. Những người đàn bà quê mùa khác không cam chịu cảnh những ông chồng “thích uống say, thích dùng tay chân để tỏ rõ uy quyền”, cả đời “không biết nói một câu yêu thương, một lời tử tế”, khi cần thì “lật cạch” mình ra thỏa mãn “rồi quay lưng ngủ khò”. Những người đàn bà thành thị không cam chịu cảnh đói rũ, chấp nhận xuống quê “làm nghề”, cái tín điều đói sạch rách thơm hóa vớ vẩn. Người đàn bà Bàu Sen không cam chịu cảnh thiếu đàn ông…  Họ không việc gì phải tỏ ra biết thân biết phận. “Chị đĩ” sau khi bị đánh ghen tả tơi bầm dập, được cứu vớt, vẫn bộc lộ nhu cầu chính đáng là được tắm nơi nước không phải nổi váng phèn, vẫn “tìm mọi cách để sà vào” người đàn ông tuổi tứ tuần có “khuôn mặt chữ điền ngời ngợi”, “đẹp trai dễ sợ” để dừng bước giang hồ, neo đậu thuyền em rách nát mà hướng thiện. Khi ai đó hỏi “Làm nghề gì”, chị dõng dạc trả lời “Làm đĩ” như thách thức, như tuyên chiến…

Thế giới đàn bà trong Cánh đồng bất tận là thế giới của những người phận bạc. Họ   đã không vô minh tự rán mình bằng vạc lệ mà biết chủ động cựa quậy bứt phá đổi đời nhưng hỡi ôi, bi kịch của họ gỡ ra rồi lại buộc vào như chơi, họ “thoát vũng lầy này lại sa vào vũng lầy khác”.

2. Khúc tụng ca nhân vật nữ chính tận thiện tận mỹ

Khi “chị đĩ” bị đám người dốc hết bản năng hoang rợ của mình để “trừng phạt” thì cô bé Nương đã “háo hức thấy mình nghĩa hiệp như Lục Vân Tiên”, “lồm cồm xô ghe dạt khỏi bờ, sợ hãi và sung sướng”, “cầm sào chống thục mạng ra giữa sông, mắt không rời đám người đang tràn ra mé bờ chực lao xuống, nhảy nhót điên cuồng”. Rồi “bò vào trong ghe, lấy áo đắp lên người chị, sao cho che được đôi vú rách bươm và khoảng đùi rướm máu”.

Nương mang trong mình trái tim non run rẩy trắc ẩn, run rẩy yêu thương. Run rẩy trắc ẩn ngay cả với những con vịt vô tội bị chôn sống, “chúng đau đớn vì những cái cổ gãy, rối quặt quẹo”. Một ngày trong chuỗi đời du mục, Nương đã nghe câu nói của một người con trai: “ước làm sao trước lúc má tui chết, bà được tắm một bữa đã đời”; câu nói này làm Nương “thương anh ta quá chừng”. Hay Nương đã run rẩy trắc ẩn trước câu nói của chị đĩ “Mắc cười quá, tới mấy con cá quỷ này còn chê chị”: “Câu nói nghe tỉnh bơ, bâng quơ mà tủi vô phương”. Nương và Điền kể câu – chuyện – của – chúng “để chị không phải ray rứt gì với thân phận làm đĩ”. Khi chị bị cha cự tuyệt, Nương “hối hận vì đã cứu chị và mang chị đi cùng”; Nương cảm giác mình “nắm tay kéo chị lên khỏi một vũng lầy để đẩy chị vào một vũng khác, cũng sâu”. Nương “chực khóc” khi thấy chị dường như “đang chết” vì không thể ngờ người đàn ông (tưởng đã là) của mình lại có thể “thơ thới” ngủ khi mình cố tình mang thân đi “đổi chác”. Nương “đắng đót thầm trong lòng một cái vẫy tay” khi chị tan nát quay đi.

Nương biết đặt mình vào người đàn bà Bàu Sen để cùng chị trải nghiệm nỗi bất an, phấp phỏng, “thấy hơi lo khi cha sắp hoàn thành chiếc tủ áo cuối cùng”; run rẩy trắc ẩn khi thấy chị “ủ ê, suốt buổi giằm đũa vào chén cơm nguội ngắt”; “bất giác ứa nước mắt” khi thấy chị gật đầu với tất cả vẻ “tở mở và rạng rỡ, gần như không suy nghĩ gì” trước lời mời đi theo cùng đầy “rắp tâm” của cha. Bằng trải nghiệm bi kịch của chị em mình, Nương run rẩy trắc ẩn trước đứa con nhỏ bị chị bỏ lại: “Cuối cùng, chị đưa nhỏ con về chơi bên ngoại, và trong lòng chị em tôi bùi ngùi tiễn nó đi như đưa tiễn một cuộc đời. Mai nó vẫn sống, nhưng mà sống khác”. Nương run rẩy trắc ẩn trước cái “thảng thốt” của chị khi vừa đi được một đoạn đường bất giác bị cha bỏ lại. Nương ”thắt thẻo” “mỗi lần cha nhìn đăm đắm và mỉm cười với một người đàn bà mới”, muốn ngăn “nhưng không cách nào ngăn được”. Nương “đắng đót” khi cảm giác cha quắp lấy người ta, “vùi mặt vào da vào thịt, ngấu nghiến mà lòng cha lạnh ngắt”. Trái tim non của Nương nát vỡ vì “nỗi bẽ bàng của những người đàn bà bị cha bỏ rơi (và cộng thêm niềm đau vỡ của những người quây quanh họ) đã thấu qua những tầng mây”.

Nương thương những người đàn bà, thương luôn cả cha. Khi thực hiện thành công việc bỏ rơi người đàn bà cốt để cho chị ta “nếm thử niềm đau” như mình đang gặm một khối, cha cười; “Chị em chúng tôi mãi mãi không quên cái cười đó, nó vừa dữ dội, đau đớn, hoang dã, cay đắng, nghiệt ngã. Cái cười thật dài, riết lấy khuôn mặt cha, làm mắt cha hơi lồi ra, ánh lên như có nước”. Thương cha vì thấu triệt tâm can cha, thấu tận cùng con người thật của cha. Nương “đắng đót” khi cha trút lớp áo tuồng (sau màn vui gượng khi có mấy đồng loại thăm chòi) thì chỉ còn lại là “xanh xao, lạnh lẽo đến ngơ ngác và cô đơn”. Nương nhìn thấu “đằng sau khuôn mặt chữ điền ngời ngợi” của cha là “nỗi đau sâu hoắm”, là “một hố sâu đen thẳm, bến bờ mờ mịt, chơi vơi, dễ hụt chân”, là “vết thương cũ mở miệng toang hoác, không da thịt nào có thể lấp đầy”.

Với Điền, Nương không chỉ dốc hết tình cảm của một người chị mà còn như thể dốc thay tình cảm của một người mẹ. Nương đã chăm sóc Điền bằng tất cả thiên tính nữ của mình: “Hay tại tôi ngồi bắt chí cho thằng Điền? Hay tại tôi càng lớn càng giống má? Có bữa, nửa đêm thằng Điền thức giấc, nhìn thấy tôi day lưng lại lui cui vá áo, nó thảng thốt kêu “Má ơi!””.

Giàu trắc ẩn, giàu yêu thương, Nương còn là một cô gái mới lớn rất đỗi xinh đẹp. Đẹp đến nỗi Điền phải thốt lên: “Đẹp làm chi dữ vậy, Hai?”. Đẹp đến nỗi “đám thanh niên lúc nào cũng kiếm cớ lảng vảng” khiến Điền phải khuyến cáo: “Anh kia, lượm con mắt lên, anh nhìn vậy, chị tôi mòn còn gì”. Đẹp đến nỗi lũ thằng Hận trầm trồ “Con nhỏ đẹp quá” trước khi thực hành cái bản năng hoang rợ của mình.

Đau đớn thay phận đàn bà. Thân em vừa trắng lại vừa tròn, thân em như tấm lụa đào nhưng phận sao phận bạc như vôi… Những khúc than thân, khúc phản kháng kiểu này tưởng đã là chuyện của ngày xửa ngày xưa nhưng tận những năm đầu thế kỷ XXI vẫn cứ vang ngân khắc khoải hôi hổi tính thời sự. Từ góc nhìn nữ quyền luận, chúng ta thêm nhận diện đầy đủ tính hiện đại của Cánh đồng bất tận.

Hoàng Đăng Khoa

Nguồn: vanvn.net.